Chồng đưa tiền cho gái, tôi đòi lại được không?

#11782 Dân sự
Câu hỏi:

Xin hỏi LuatVietnam: Tôi phát hiện chồng tôi đưa tiền cho gái. Số tiền khoảng tầm 300 triệu. Nay tôi muốn kiện đòi lại số tiền đó. Xin hỏi tôi có thể đòi lại được không? Chồng tôi và cô gái kia đều là đảng viên. Nếu tôi kiện thì có ảnh hưởng gì đến công việc của chồng tôi không? Nếu tôi viết đơn khởi kiện thì tôi sẽ ghi bị đơn là chồng hay cô bồ của chồng? Xin cảm ơn!

Trả lời:

Căn cứ Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản như sau:

Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó.

Đối chiếu quy định trên, để xác định bạn có quyền đòi lại tài sản hay không thì cần xác định bạn có phải là chủ sở hữu của tài sản hay không và việc người phụ nữ kia đang chiếm hữu, sử dụng số tiền 300 triệu đồng này là có căn cứ pháp luật hay không.

Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng gồm:

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Như vậy, nếu số tiền này là tài sản do vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân thì đây sẽ là tài sản chung của hai vợ chồng. Nếu chồng bạn có tranh chấp và cho rằng số tiền này là tài sản riêng thì phải đưa ra được căn cứ chứng minh, nếu chồng bạn không đưa ra được căn cứ chứng minh đây là tài sản riêng thì số tiền này được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, bạn và chồng cùng có quyền sở hữu tài sản chung này. Ngược lại, trường hợp chồng bạn đưa ra căn cứ chứng minh số tiền này là tài sản riêng của chồng bạn thì chồng bạn hoàn toàn có quyền định đoạt việc tặng cho tài sản riêng cho người khác.

Việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 35 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.

Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:

a) Bất động sản;

b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;

c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

Theo đó, việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng phải được hai vợ chồng thỏa thuận. Nếu số tiền này là tài sản chung của vợ chồng thì việc chồng bạn tự định đoạt giao tài sản cho người khác là trái quy định của pháp luật. Vì vậy, bạn có quyền khởi kiện để đòi lại tài sản.

Căn cứ Quy định số 69-QĐ/TW của Ban chấp hành Trung ương quy định về việc kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Cụ thể tại Điều 51 quy định thì liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình: đảng viên đang có vợ hoặc chồng nhưng vẫn sống chung với người khác như vợ chồng hoặc vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, gây dư luận xấu trong xã hội sẽ bị xem xét kỷ luật.

Chồng bạn không có các hành vi nêu trên mà chỉ thực hiện việc giao tài sản chung của vợ chồng cho người khác khi chưa có thỏa thuận với bạn sẽ không thuộc một trong các vi phạm bị xem xét kỷ luật. Do đó, việc bạn khởi kiện đòi lại tài sản không ảnh hưởng đến công việc của chồng.

Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”. Đối chiếu quy định trên, người phụ nữ này đang chiếm giữ số tiền 300 triệu đồng là tài sản chung của vợ chồng bạn. Do đó, quyền và lợi ích hợp pháp của bạn đang bị xâm phạm. Bạn có thể khởi kiện người phụ nữ này để đòi lại tài sản và khi đó, người phụ nữ này sẽ là bị đơn trong vụ án dân sự.

Xem thêm: Gia hạn đất nông nghiệp hết bao nhiêu tiền?

Trên đây là nội dung tư vấn cho câu hỏi “Chồng đưa tiền cho gái, tôi đòi lại được không?​​​” dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn! 

*Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: tuvan@luatvietnam.vn
Quý khách có bất kỳ vấn đề nào cần tư vấn, hãy đặt câu hỏi cho các luật sư để được tư vấn một cách nhanh chóng nhất!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY