Trả lời:
Theo như thông tin bạn cung cấp thì cha bạn sống chung với cả mẹ cả và mẹ hai của bạn trước thời điểm 03/01/1987.
Theo quy định của Khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết.”
Như vậy, nam nữ sống chung nhưng không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo quy định của Thông tư Liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.
Theo đó, tuy cha bạn và mẹ cả không đăng ký kết hôn nhưng đã chung sống như vợ chồng trước năm 1987, do đó được coi là mối quan hệ hôn nhân thực tế được pháp luật thừa nhận và mẹ cả của bạn là người thừa kế hàng thứ nhất hợp pháp.
Đối với trường hợp sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn của mẹ hai, chúng tôi tư vấn như sau:
Trước hết, như đã giải thích bên trên thì pháp luật thừa nhận việc chung sống như vợ chồng của cha bạn và mẹ cả là mối quan hệ hôn nhân hợp pháp. Do đó việc cha bạn có thêm vợ hai là trái với quy đinh của pháp luật.
Chế độ đa thê chỉ được pháp luật thừa nhận nếu việc đó xảy trước năm 1960 đối với miền Bắc và năm 1977 đối với miền Nam ( trước thời điểm Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 1959 có hiệu lực).
Như vậy, việc sống chung như vợ chồng giữa cha bạn và mẹ hai không được pháp luật thừa nhận, do đó mẹ hai của bạn không được coi là người thừa kế hợp pháp.
Vì vậy, khối tài sản do cha bạn để lại bao gồm cả 2 thửa đất sẽ được chia đều cho những người thừa kế hàng thứ nhất hợp pháp tổng cộng 11 người, bao gồm mẹ cả và 10 người con.
Trên đây là nội dung tư vấn dựa trên những thông tin mà luật sư đã nhận được. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan, vui lòng liên hệ 19006192 để được hỗ trợ kịp thời. Xin cảm ơn!