Trả lời:
Do thông tin bạn cung cấp chưa đầy đủ nên luật sư tư vấn như sau:
Trường hợp 1:
Người nhận tiền này không có khả năng đưa người đi xuất khẩu lao động Hàn Quốc nhưng đã sử dụng các thủ đoạn gian dối để bạn tin tưởng dẫn đến việc bạn chuyển tiển cho người này thì hành vi của người này có dấu hiệu của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Trường hợp này bạn có quyền làm đơn đến cơ quan công an để tố giác hành vi của đối tượng này và yêu cầu xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp 2:
Người này có khả năng đưa người đi xuất khẩu lao động, nhưng sau khi bạn chuyển tiền thì không đưa bạn đi xuất khẩu lao động và bạn cũng đã nhiều lần yêu cầu người này trả tiền nhưng người này không chịu trả thì hành vi này có dấu hiệu của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản - Điều 175 Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017.
Trường hợp này bạn cũng có quyền làm đơn đến cơ quan công an đề tổ giác hành vi của đối tượng này và yêu cầu xử lý đối tường này theo quy định pháp luật.
Trường hợp 3:
Người nhận tiền có khả năng đưa người đi xuất khẩu lao động nhưng trong quá trình làm hồ sơ giấy tờ xảy ra một số vấn đề phát sinh dẫn đến việc bạn không thể sang Hàn Quốc để lao động hoặc người này có khả năng đưa bạn đi xuất khẩu lao đông nhưng lại không thực hiện công việc mà số tiền bạn chuyển người này đã sử dụng hết, hiện không có khả năng hoàn trả lại cho bạn.
Trường hợp này không có dấu hiệu hình sự mà khi đó bạn cần phải trao đổi thỏa thuận với người này về viêc hoàn trả tiền cho bạn, nếu không thỏa thuận được thì bạn có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp quận, huyện nơi người này cư trú để yêu cầu hoàn trả tiền cho bạn.