Ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy là ngày nào? Nguồn gốc từ đâu?

Ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy có ý nghĩa quan trọng, nhằm nâng cao ý thức và trách nhiệm của người dân trong công tác phòng cháy chữa cháy. Vậy pháp luật quy định về ngày phòng cháy chữa cháy toàn dân là ngày nào?

1. Ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy là ngày nào? Nguồn gốc từ đâu?

Ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy là ngày nào? Nguồn gốc từ đâu? (Ảnh minh hoạ)

Theo quy định tại Điều 11 Luật Phòng cháy và chữa cháy số 27/2001/QH10, ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy là ngày 04/10 hàng năm (hay còn được gọi là ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy).

Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001 có hiệu lực kể từ ngày 04/10/2001, do đó ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy chính thức được phát động và hưởng ứng kể từ năm 2001.

Tuy nhiên, trước đó, ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy cũng đã được đề cập tại các văn bản sau:

- Ngày 31/5/1991. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 175/CT về công tác phòng cháy và chữa cháy, trong đó có quy định rõ ngày 04/10 dương lịch hàng năm là “Ngày truyền thống toàn dân phòng cháy chữa cháy”.

- Sau đó, vào ngày 04/6/1996, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 369/QĐ-TTg, theo đó xác định lấy ngày 04/10 hàng năm là “Ngày phòng cháy chữa cháy toàn dân”.

Bên cạnh đó, quyết định này còn nêu rõ việc tổ chức ngày phòng cháy chữa cháy toàn dân nhằm nâng cao ý thức của toàn dân về phòng cháy chữa cháy, huy động quần chúng tham gia vào các hoạt động thiết thực, bổ ích trong việc phòng cháy chữa cháy.

2. Ý nghĩa của ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy là gì?

Việc phòng cháy chữa cháy là hoạt động quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao ý thức tự giác và trách nhiệm của bản thân trong công tác phòng cháy chữa cháy, vì hoả hoạn, cháy nổ có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Có thể thấy rằng, ý nghĩa của ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy chính là hoạt động của quần chúng nhân dân để thực hiện các hoạt động về phòng cháy chữa cháy, góp phần nâng cao phong trào quần chúng.

Ngoài ra, việc xây dựng phong trào toàn dân tham gia vào phòng cháy chữa cháy là cần thiết vì đây là biện pháp thường xuyên, lâu dài, mang tính chiến lược trong hoạt động phòng cháy chữa cháy.

3. Trách nhiệm phòng cháy chữa cháy của toàn dân

Trách nhiệm phòng cháy chữa cháy của toàn dân (Ảnh minh hoạ)

Căn cứ theo Điều 5 Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001, được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 2 Điều 1 Luật Phòng cháy và chữa cháy sửa đổi số 40/2013QH13, trách nhiệm phòng cháy chữa cháy của toàn dân được quy định cụ thể như sau:

- Phòng cháy chữa cháy là trách nhiệm của mỗi một cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Mọi công dân từ 18 tuổi trở lên, có đủ sức khoẻ thì phải có trách nhiệm tham gia vào đội dân phòng và/hoặc đội phòng cháy chữa cháy của cơ sở được thành lập ở nơi cư trú hoặc tại nơi làm việc khi được yêu cầu.

- Quy định này cũng đặt ra trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình và cá nhân cụ thể như sau:

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức

Chủ hộ gia đình

Cá nhân

Là người chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động và phải thường xuyên kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy trong phạm vi trách nhiệm của mình.

(i) Đôn đốc, nhắc nhở các thành viên của gia đình thực hiện theo đúng quy định pháp luật về phòng cháy chữa cháy.

(ii) Thường xuyên kiểm tra, phát hiện, khắc phục kịp thời các nguy cơ gây ra cháy nổ.

(iii) Phối hợp với cơ quan/tổ chức/hộ gia đình khác trong việc đảm bảo điều kiện về an toàn phòng cháy chữa cháy; quản lý chặt chẽ, sử dụng an toàn các chất dễ gây ra cháy nổ.

(i) Chấp hành theo các nội quy, quy định, yêu cầu phòng cháy chữa cháy của người/cơ quan thẩm quyền.

(ii) Tuân thủ pháp luật, nắm vững kiến thức cần thiết về phòng cháy chữa cháy; biết sử dụng các dụng cụ và phương tiện phòng cháy chữa cháy thông dụng.

(iii) Đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy khi sử dụng nguồn nhiệt, nguồn lửa, thiết bị, dụng cụ sinh nhiệt, sinh lửa trong việc bảo quản và sử dụng chất cháy.

(iv) Ngăn chặn nguy có trực tiếp là phát sinh cháy, hành vi vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy.

(v) Thực hiện theo các quy định pháp luật khác có liên quan.

Ngoài ra, nội dung tại Điều này cũng quy định lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy phải có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động phòng cháy chữa cháy của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và thực hiện nhiệm vụ chữa cháy.

4. Các biện pháp cơ bản trong hoạt động phòng cháy, chữa cháy

Theo Điều 14 và Điều 30 Luật Phòng cháy và chữa cháy năm 2001, các biện pháp cơ bản trong phòng cháy, chữa cháy được quy định như sau:

*Các biện pháp cơ bản trong hoạt động phòng cháy:

- Quản lý chặt chẽ, sử dụng an toàn các chất cháy, nổ, nguồn nhiệt, nguồn lửa và các thiết bị, dụng cụ sinh nhiệt, sinh lửa; đảm bảo điều kiện về an toàn phòng cháy chữa cháy.

- Thường xuyên và định kỳ kiểm tra để phát hiện ra các sơ hở, thiếu sót về phòng cháy, đồng thời có biện pháp để khắc phục kịp thời.

*Các biện pháp cơ bản trong hoạt động chữa cháy:

- Huy động nhất nhất các lực lượng và phương tiện để dập tắt ngay đám cháy xảy ra.

- Tập trung vào việc cứu người, tài sản và chống cháy lan.

- Thống nhất việc chỉ huy và điều hành trong hoạt động chữa cháy.

Trên đây là những thông tin về Ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy là ngày nào? Nguồn gốc từ đâu?
Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài 19006192 để được hỗ trợ.
Chia sẻ:
Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Vì sao phản đối nhãn hiệu lại cần thiết ở Việt Nam?

Nhiều chủ nhãn hiệu có thể nghĩ rằng, thẩm định viên tại Cục SHTT Việt Nam sẽ tự động từ chối các đơn đăng ký nhãn hiệu bị xem là tương tự rõ ràng với các nhãn hiệu có trước, nhưng thực tế có thể khác biệt một cách bất ngờ. Việc cho rằng các nhãn hiệu rất giống nhau, đặc biệt là những nhãn hiệu đăng ký cho các hàng hóa và dịch vụ tương tự hoặc liên quan, chắc chắn sẽ bị từ chối, là một lầm tưởng phổ biến. Vì những lý do không lường trước được trong quá trình thẩm định, ngay cả những nhãn hiệu có vẻ tương tự gây nhầm lẫn đôi khi vẫn có thể được bảo hộ.

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có miễn trừ trách nhiệm vi phạm bản quyền?

Nhãn hiệu và bản quyền - hai khái niệm tưởng chừng như quen thuộc nhưng lại ẩn chứa vô vàn những vấn đề pháp lý phức tạp. Nhiều người lầm tưởng rằng, có được Giấy chứng nhận Đăng ký Nhãn hiệu là "vô tư" sử dụng logo mà không cần quan tâm đến bất kỳ điều gì khác. Tuy nhiên, thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Thực tế chỉ ra rằng, việc đăng ký nhãn hiệu và vấn đề vi phạm bản quyền là hai phạm trù pháp lý hoàn toàn khác biệt. KENFOX IP & Law Office phân tích những khác biệt cốt lõi, khám phá những điểm giao thoa và đặc biệt, làm sáng tỏ lý do vì sao, ngay cả khi bạn đã có nhãn hiệu được đăng ký, nguy cơ vi phạm bản quyền vẫn luôn rình rập.

Thế chấp tài sản trí tuệ - Nhãn hiệu tại Việt Nam: Phân tích pháp lý và triển vọng thị trường

Việt Nam đang khẳng định vị thế là một nền kinh tế năng động, hội nhập quốc tế sâu rộng và đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, và vai trò của tài sản trí tuệ (TSTT) ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như công nghệ, thương mại điện tử và dược phẩm. Cùng với sự gia tăng đầu tư nước ngoài, một vấn đề pháp lý then chốt được đặt ra là: Khung pháp lý hiện hành của Việt Nam có đủ khả năng bảo đảm TSTT được công nhận và bảo vệ như một loại tài sản có thể thế chấp, từ đó tạo điều kiện cho việc sử dụng TSTT như một công cụ tài chính hữu hiệu cho doanh nghiệp và nhà đầu tư hay không?