Hiếp dâm, dùng tiền hoà giải được không?

Hiếp dâm từ lâu đã trở thành vấn đề gây nhức nhối trong xã hội, tệ nạn này đang có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp. Nhiều trường hợp người phạm tội hiếp dâm dùng tiền để hòa giải, bồi thường cho gia đình nạn nhân với mong muốn không phải ngồi tù. Vậy, pháp luật quy định thế nào về trường hợp này?

Hiếp dâm sau đó dùng tiền để hòa giải có được không?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng các thủ đoạn khác để thực hiện giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì có thể bị xử lý hình sự về Tội hiếp dâm.

Trên thực tế, có nhiều trường hợp sau khi nạn nhân yêu cầu khởi tố vụ án, người thực hiện hành vi vi phạm đã đề nghị hòa giải và bồi thường cho nạn nhân một khoản tiền nhất định nhằm thuyết phục gia đình nạn nhân làm đơn bãi nại để không phải đi tù.

Về việc khởi tố theo yêu cầu của bị hại, khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2021 quy định:

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

Như vậy, theo quy định nêu trên thì trường hợp người phạm tội bị khởi tố theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự về Tội hiếp dâm thuộc một trong các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại.

Do đó, nếu người thực hiện hành vi hiếp dâm đã tiến hành hòa giải, bồi thường cho người bị hại và người bị hại không có yêu cầu khởi tố vụ án thì người vi phạm sẽ không bị khởi tố.

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 155 Bộ luật này, trường hợp người bị hại đã yêu cầu khởi tố vụ án nhưng sau khi hòa giải xong lại rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức.

Tóm lại, sau khi hòa giải xong và nhận bồi thường, người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sẽ đình chỉ vụ án. Khi đó, người có hành vi hiếp dâm theo khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và không bị đi tù.

hiep dam dung tien hoa gai duoc khong
Hiếp dâm dùng tiền hòa giải được không? (Ảnh minh họa)

Trường hợp bị khởi tố, Tội hiếp dâm đi tù bao nhiêu năm?

Theo quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, các khung hình phạt chính áp dụng với tội này như sau:

- Khung 01:

Phạt tù từ 02 - 07 năm với trường hợp giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân bằng các hành vi:

+ Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực; hoặc

+ Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác.

- Khung 02:

Phạt tù từ 07 - 15 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

  • Có tổ chức;
  • Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
  • Nhiều người hiếp một người;
  • Phạm tội 02 lần trở lên;
  • Đối với 02 người trở lên;
  • Có tính chất loạn luân;
  • Làm nạn nhân có thai;
  • Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% - 60%;
  • Tái phạm nguy hiểm.

- Khung 03:

Phạt tù từ 12 - 20 năm hoặc tù chung thân nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

  • Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  • Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
  • Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

Trường hợp phạm tội đối với người từ đủ 16 - dưới 18 tuổi, người phạ tội bị phạt tù từ 05 - 10 năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khung hình phạt 02 hoặc khung hình phạt 03 thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tương ứng.

Bên cạnh hình thức xử phạt chính nêu trên, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 - 05 năm.

Trên đây là giải đáp về vấn đề "Hiếp dâm dùng tiền hòa giải được không?" Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ:  1900.6192  để được hỗ trợ.

Đánh giá bài viết:
(1 đánh giá)
Bài viết đã giải quyết được vấn đề của bạn chưa?
Rồi Chưa
Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi 19006192

Tin cùng chuyên mục

Vì sao phản đối nhãn hiệu lại cần thiết ở Việt Nam?

Vì sao phản đối nhãn hiệu lại cần thiết ở Việt Nam?

Vì sao phản đối nhãn hiệu lại cần thiết ở Việt Nam?

Nhiều chủ nhãn hiệu có thể nghĩ rằng, thẩm định viên tại Cục SHTT Việt Nam sẽ tự động từ chối các đơn đăng ký nhãn hiệu bị xem là tương tự rõ ràng với các nhãn hiệu có trước, nhưng thực tế có thể khác biệt một cách bất ngờ. Việc cho rằng các nhãn hiệu rất giống nhau, đặc biệt là những nhãn hiệu đăng ký cho các hàng hóa và dịch vụ tương tự hoặc liên quan, chắc chắn sẽ bị từ chối, là một lầm tưởng phổ biến. Vì những lý do không lường trước được trong quá trình thẩm định, ngay cả những nhãn hiệu có vẻ tương tự gây nhầm lẫn đôi khi vẫn có thể được bảo hộ.

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có miễn trừ trách nhiệm vi phạm bản quyền?

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có miễn trừ trách nhiệm vi phạm bản quyền?

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có miễn trừ trách nhiệm vi phạm bản quyền?

Nhãn hiệu và bản quyền - hai khái niệm tưởng chừng như quen thuộc nhưng lại ẩn chứa vô vàn những vấn đề pháp lý phức tạp. Nhiều người lầm tưởng rằng, có được Giấy chứng nhận Đăng ký Nhãn hiệu là "vô tư" sử dụng logo mà không cần quan tâm đến bất kỳ điều gì khác. Tuy nhiên, thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Thực tế chỉ ra rằng, việc đăng ký nhãn hiệu và vấn đề vi phạm bản quyền là hai phạm trù pháp lý hoàn toàn khác biệt. KENFOX IP & Law Office phân tích những khác biệt cốt lõi, khám phá những điểm giao thoa và đặc biệt, làm sáng tỏ lý do vì sao, ngay cả khi bạn đã có nhãn hiệu được đăng ký, nguy cơ vi phạm bản quyền vẫn luôn rình rập.

Thế chấp tài sản trí tuệ - Nhãn hiệu tại Việt Nam: Phân tích pháp lý và triển vọng thị trường

Thế chấp tài sản trí tuệ - Nhãn hiệu tại Việt Nam: Phân tích pháp lý và triển vọng thị trường

Thế chấp tài sản trí tuệ - Nhãn hiệu tại Việt Nam: Phân tích pháp lý và triển vọng thị trường

Việt Nam đang khẳng định vị thế là một nền kinh tế năng động, hội nhập quốc tế sâu rộng và đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, và vai trò của tài sản trí tuệ (TSTT) ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như công nghệ, thương mại điện tử và dược phẩm. Cùng với sự gia tăng đầu tư nước ngoài, một vấn đề pháp lý then chốt được đặt ra là: Khung pháp lý hiện hành của Việt Nam có đủ khả năng bảo đảm TSTT được công nhận và bảo vệ như một loại tài sản có thể thế chấp, từ đó tạo điều kiện cho việc sử dụng TSTT như một công cụ tài chính hữu hiệu cho doanh nghiệp và nhà đầu tư hay không?

Các căn cứ phổ biến khiến cho nhãn hiệu bị từ chối bảo hộ tại Việt Nam

Các căn cứ phổ biến khiến cho nhãn hiệu bị từ chối bảo hộ tại Việt Nam

Các căn cứ phổ biến khiến cho nhãn hiệu bị từ chối bảo hộ tại Việt Nam

Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam thường đối mặt với nguy cơ bị từ chối, dẫn đến lãng phí thời gian và nguồn lực. Tuy nhiên, nhiều trường hợp từ chối hoàn toàn có thể tránh được. Việc hiểu rõ các căn cứ từ chối nhãn hiệu thường gặp tại Việt Nam - như xung đột với các nhãn hiệu đã đăng ký, sử dụng các thuật ngữ chung chung/mô tả, hoặc vi phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội - giúp người nộp đơn chủ động giải quyết các vấn đề tiềm ẩn. Cách tiếp cận chủ động này giúp phản hồi hiệu quả hơn trước các thông báo từ chối và cuối cùng, giúp cho quá trình đăng ký nhãn hiệu thành công và hiệu quả hơn.

Đánh ghen ngoài đường có phải là gây rối trật tự công cộng?

Đánh ghen ngoài đường có phải là gây rối trật tự công cộng?

Đánh ghen ngoài đường có phải là gây rối trật tự công cộng?

Trong thời gian gần đây, trên các bài báo, mạng xã hội đăng tải nhiều clip liên quan đến việc đánh ghenở ngay ngoài đường. Đáng chú ý, hành vi này đã gây ra hiện tượng mất trật tự công cộng, ách tắc giao thông. Vậy, đánh ghen ngoài đường có phải là gây rối trật tự công cộng không? Bị xử lý thế nào?

Tội gây rối trật tự công cộng có được hưởng án treo không?

Tội gây rối trật tự công cộng có được hưởng án treo không?

Tội gây rối trật tự công cộng có được hưởng án treo không?

Gây rối trật tự công cộng là hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trât tự, an toàn xã hội. Người có hành vi gây rối có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị xử lý hình sự vê Tội gây rối trật tự công cộng. Vậy, trường hợp xử lý hình sự, Tội gây rối trật tự công cộng có được hưởng án treo không?