Điều kiện công nhận người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945

Khi tham gia hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945, các đối tượng này sẽ được Nhà nước hỗ trợ trợ cấp, phụ cấp để ghi công. Vậy điều kiện để công nhận thuộc đối tượng này như thế nào?

1. Tiêu chuẩn người hoạt động Cách mạng trước 01/01/1945 là gì?

Theo khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945 được công nhận nếu có một trong các điều kiện sau đây:

- Đã tham gia một tổ chức cách mạng trước 01/01/1945. Trong đó, theo khoản 1 Điều 4 Nghị định 131/2021/NĐ-CP, việc đã tham gia một tổ chức cách mạng bao gồm:

+ Đã tham gia một tổ chức cách mạng trước 01/01/1945.

+ Đã thực sự hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng trước 01/01/1945.

- Đã được kết nạp/kết nạp lại vào Đảng Cộng sản Đông Dương trước 19/8/1945.

Việc công nhận hoạt động cách mạng trước 01/01/1945 thực hiện theo quy định của Chỉ thị 27-CT/TW năm 1977 và Thông tri số 07-TT/TC năm 1979.


2. Thủ tục công nhận người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945

Ngoài điều kiện công nhận người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945, thủ tục và mức hỗ trợ cho người được công nhận hoạt động cách mạng trước 01/01/1945 cũng được nhiều người quan tâm. Cụ thể, thủ tục như sau:

2.1 Căn cứ lập hồ sơ

2.1.1 Nếu còn sống hoặc đã hy sinh, từ trần sau 30/6/1999

- Lý lịch cán bộ, Đảng viên khai từ 1962 trở về trước.

- Lý lịch khai trong Cuộc vận động bảo vệ Đảng.

- Lý lịch Đảng viên khai năm 1975, 1976 (với người hoạt động cách mạng được kết nạp sau 1969 hoặc hoạt động liên tục ở chiến trường B, C, K từ 1954 đến 30/4/1975).

2.1.2 Người đã hy sinh, từ trần từ 30/6/1999 trở về trước

- Bản sao chứng thực các giấy tờ ở mục 2.1.1 trên;

- Hồ sơ khen thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hoặc từ hồ sơ, tài liệu đang lưu giữ tại cơ quan của Đảng, Nhà nước, bảo tàng lịch sử từ cấp huyện trở lên.

- Trích lục hồ sơ liệt sĩ.

- Lịch sử Đảng bộ từ cấp xã trở lên.

Lưu ý: Các giấy tờ này là bản sao được chứng thực từ bản gốc.

2.2 Hồ sơ cần chuẩn bị

- Bản khai (mẫu số 01).

- Các giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi đã nêu ở trên.

2.3 Nộp hồ sơ ở đâu?

Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi thường trú.

2.4 Thời gian giải quyết

- 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ: UBND cấp xã xác nhận bản khai, gửi đủ giấy tờ đến cơ quan có thẩm quyền:

+ Ban Đảng, Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương: Người hoạt động cách mạng thuộc ban, Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương quản lý.

+ Tổng cục Chính trị: Người hoạt động cách mạng thuộc quân đội.

+ Ban Thường vụ Đảng uỷ công an Trung ương: Người hoạt động cách mạng thuộc quân đội.

- 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ: Ban hành quyết định cấp giấy chứng nhận người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945 và trợ cấp, phụ cấp ưu đãi.


3. Người công nhận hoạt động cách mạng trước 01/01/1945 hưởng hỗ trợ gì?

Các chế độ ưu đãi với người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945 được nêu tại Điều 9 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng gồm:

- Được cấp giấy chứng nhận người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945.

- Bảo hiểm y tế.

- Điều dưỡng phục hồi sức khoẻ hằng năm.

- Hỗ trợ cải thiện nhà ở.

- Chế độ ưu đãi: Giảm hoặc miễn tiền sử dụng đất khi mua nhà ở xã hội, khi được nhà nước giao đất; được cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình...

- Cấp tiền mua báo Nhân dân hằng ngày…

- Trợ cấp hằng tháng, phụ cấp hằng tháng theo các mức nêu tại Nghị định 75/2021/NĐ-CP:

STT

Đối tượng

Mức trợ cấp

Trợ cấp

Phụ cấp

1

Người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945

1.1

Diện thoát ly

1.815.000

308.000/thâm niên

1.2

Diện không thoát ly

3.081.000

2

Thân nhân người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945 từ trần

2.1

Tuất hàng tháng: Vợ/chồng, con chưa đủ 18 tuổi/từ đủ 18 tuổi vẫn đi học/bị khuyết tật nặng/đặc biệt nặng

1.624.000

Không

2.2

Tuất nuôi dưỡng hàng tháng: Vợ/chồng sống cô đơn, con mồ côi cha mẹ chưa đủ 18 tuổi/từ đủ 18 tuổi còn đi học/bị khuyết tật nặng/đặc biệt

1.299.000

Không

Trên đây là quy định về điều kiện công nhận người hoạt động cách mạng trước 01/01/1945. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ, giải đáp.

Chia sẻ:
Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Vì sao phản đối nhãn hiệu lại cần thiết ở Việt Nam?

Nhiều chủ nhãn hiệu có thể nghĩ rằng, thẩm định viên tại Cục SHTT Việt Nam sẽ tự động từ chối các đơn đăng ký nhãn hiệu bị xem là tương tự rõ ràng với các nhãn hiệu có trước, nhưng thực tế có thể khác biệt một cách bất ngờ. Việc cho rằng các nhãn hiệu rất giống nhau, đặc biệt là những nhãn hiệu đăng ký cho các hàng hóa và dịch vụ tương tự hoặc liên quan, chắc chắn sẽ bị từ chối, là một lầm tưởng phổ biến. Vì những lý do không lường trước được trong quá trình thẩm định, ngay cả những nhãn hiệu có vẻ tương tự gây nhầm lẫn đôi khi vẫn có thể được bảo hộ.

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có miễn trừ trách nhiệm vi phạm bản quyền?

Nhãn hiệu và bản quyền - hai khái niệm tưởng chừng như quen thuộc nhưng lại ẩn chứa vô vàn những vấn đề pháp lý phức tạp. Nhiều người lầm tưởng rằng, có được Giấy chứng nhận Đăng ký Nhãn hiệu là "vô tư" sử dụng logo mà không cần quan tâm đến bất kỳ điều gì khác. Tuy nhiên, thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Thực tế chỉ ra rằng, việc đăng ký nhãn hiệu và vấn đề vi phạm bản quyền là hai phạm trù pháp lý hoàn toàn khác biệt. KENFOX IP & Law Office phân tích những khác biệt cốt lõi, khám phá những điểm giao thoa và đặc biệt, làm sáng tỏ lý do vì sao, ngay cả khi bạn đã có nhãn hiệu được đăng ký, nguy cơ vi phạm bản quyền vẫn luôn rình rập.

Thế chấp tài sản trí tuệ - Nhãn hiệu tại Việt Nam: Phân tích pháp lý và triển vọng thị trường

Việt Nam đang khẳng định vị thế là một nền kinh tế năng động, hội nhập quốc tế sâu rộng và đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, và vai trò của tài sản trí tuệ (TSTT) ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như công nghệ, thương mại điện tử và dược phẩm. Cùng với sự gia tăng đầu tư nước ngoài, một vấn đề pháp lý then chốt được đặt ra là: Khung pháp lý hiện hành của Việt Nam có đủ khả năng bảo đảm TSTT được công nhận và bảo vệ như một loại tài sản có thể thế chấp, từ đó tạo điều kiện cho việc sử dụng TSTT như một công cụ tài chính hữu hiệu cho doanh nghiệp và nhà đầu tư hay không?