- 1. Lần đầu tiên luật hóa vấn đề sở hữu trí tuệ gắn với trí tuệ nhân tạo
- 2. Mở rộng, làm rõ giới hạn quyền sở hữu trí tuệ vì lợi ích công cộng
- 3. Bổ sung chính sách mới về quản lý, khai thác và thương mại hóa quyền SHTT
- 4. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động sở hữu trí tuệ
- 5. Điều chỉnh cách thức nộp đơn yêu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
- 6. Sửa đổi yêu cầu chung đối với đơn đăng ký sở hữu công nghiệp
- 7. Siết chặt trách nhiệm của nền tảng số và doanh nghiệp trung gian
1. Lần đầu tiên luật hóa vấn đề sở hữu trí tuệ gắn với trí tuệ nhân tạo
Một trong những điểm mới có tính đột phá là bổ sung quy định về phát sinh, xác lập quyền SHTT đối với đối tượng được tạo ra có sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo. Cụ thể:
Khoản 2 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2025 đã bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 như sau
“5. Căn cứ vào quy định của Luật này, Chính phủ quy định việc phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này trong trường hợp đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra có sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo.”.
Như vậy, Luật sửa đổi giao Chính phủ quy định chi tiết việc xác lập quyền trong trường hợp đối tượng SHTT được tạo ra có sử dụng AI.
2. Mở rộng, làm rõ giới hạn quyền sở hữu trí tuệ vì lợi ích công cộng
Luật sửa đổi 2025 đã sửa đổi, bổ sung khoản 2 và khoản 3; bổ sung khoản 4 và khoản 5 vào sau khoản 3 Điều 7 Điều 7 toàn diện theo hướng:
- Nhấn mạnh việc khai thác và bảo vệ quyền SHTT không được xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng. Cụ thể:
“2. Việc khai thác, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó, cho phép Nhà nước cấm, hạn chế hoặc buộc chuyển giao quyền sử dụng trong các trường hợp đặc biệt như quốc phòng, an ninh, y tế, khoa học - công nghệ;
- Đồng thời bổ sung cơ chế xử lý xung đột giữa nhiều quyền SHTT trên cùng một đối tượng, trong đó quyền phát sinh sau có thể bị buộc chấm dứt thực hiện theo quyết định của Tòa án;
Và lần đầu tiên cho phép sử dụng hợp pháp văn bản, dữ liệu đã công bố để nghiên cứu, thử nghiệm, huấn luyện hệ thống AI, với điều kiện không gây ảnh hưởng bất hợp lý đến quyền của chủ sở hữu (theo khoản 5 mới được bổ sung)
5. Tổ chức, cá nhân được sử dụng văn bản và dữ liệu về đối tượng quyền sở hữu trí tuệ đã được công bố hợp pháp và công chúng được phép tiếp cận để phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học, thử nghiệm, huấn luyện hệ thống trí tuệ nhân tạo, với điều kiện việc sử dụng này không ảnh hưởng bất hợp lý đến quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này.
Đối với văn bản và dữ liệu là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan, việc sử dụng văn bản và dữ liệu theo quy định tại khoản này còn phải thực hiện theo quy định của Chính phủ.
3. Bổ sung chính sách mới về quản lý, khai thác và thương mại hóa quyền SHTT
Luật sửa đổi cũng đã bổ sung Điều 8a - một điều hoàn toàn mới, lần đầu tiên quy định trực tiếp về quản lý và khai thác quyền SHTT như một loại tài sản.
“Điều 8a. Quản lý, khai thác quyền sở hữu trí tuệ
1. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có trách nhiệm lập danh mục riêng để quản trị nội bộ trong trường hợp quyền sở hữu trí tuệ chưa đáp ứng điều kiện để ghi nhận giá trị tài sản trong sổ kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán.
2. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để thực hiện các hoạt động giao dịch dân sự, thương mại, đầu tư và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật liên quan theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ, quản lý, sử dụng tài sản cộng và quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Nhà nước khuyến khích khai thác quyền sở hữu trí tuệ, sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để góp vốn hoặc thế chấp để vay vốn theo quy định của pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, tín dụng và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Như vậy:
- Chủ sở hữu có trách nhiệm quản trị nội bộ quyền SHTT;
- Quyền SHTT được sử dụng để góp vốn, thế chấp, đầu tư, giao dịch thương mại;
- Nhà nước khuyến khích khai thác quyền SHTT để huy động vốn và phát triển sản xuất, kinh doanh.
4. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động sở hữu trí tuệ
Khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi đã bổ sung Điều 11b về chuyển đổi số hoạt động sở hữu trí tuệ, tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hiện đại hóa hệ thống SHTT quốc gia trong giai đoạn 2026-2035
Theo đó, Nhà nước thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện hoạt động sở hữu trí tuệ thông qua việc ưu tiên phát triển đồng bộ hạ tầng số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, các nền tảng số phục vụ nghiệp vụ sở hữu trí tuệ, bao gồm cả cơ sở dữ liệu về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và cơ sở dữ liệu về giá giao dịch quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm an toàn và thân thiện với người sử dụng.
Nhà nước đầu tư để tự động hóa quy trình nghiệp vụ ứng dụng công nghệ, trong đó có dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để nâng cao hiệu quả, tính minh bạch của hoạt động sở hữu trí tuệ.
5. Điều chỉnh cách thức nộp đơn yêu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
Cách thức nộp đơn yêu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 89 được sửa đổi, bổ sung như sau:“Điều 89. Cách thức nộp đơn yêu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam có thể tự mình hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam để nộp đơn yêu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.
2. Cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam nộp đơn yêu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.
3. Đơn trong các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp phải được nộp dưới hình thức văn bản ở dạng giấy hoặc dạng điện tử theo hệ thống nộp đơn điện tử.
So với quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Luật sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ 2019, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2025 đã:
- Mở rộng phạm vi điều chỉnh: từ “đăng ký xác lập quyền” sang “các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp”.
- Thống nhất hình thức nộp đơn giấy và điện tử cho mọi thủ tục.
6. Sửa đổi yêu cầu chung đối với đơn đăng ký sở hữu công nghiệp
Luật 2025 sửa đổi Điều 100 về yêu cầu chung đối với đơn đăng ký sở hữu công nghiệp của Luật 2005 như sau:
Ở quy định cũ, Điều 100 liệt kê cụ thể và đầy đủ từng loại tài liệu phải có trong đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, bao gồm: tờ khai, tài liệu kỹ thuật thể hiện đối tượng bảo hộ, giấy ủy quyền, tài liệu chứng minh quyền đăng ký, tài liệu chứng minh quyền ưu tiên, tài liệu về nguồn gen, chứng từ nộp phí, lệ phí…
Ở quy định mới, không còn liệt kê chi tiết các thành phần hồ sơ mà chỉ quy định mang tính nguyên tắc: “Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp bao gồm các tài liệu về đối tượng yêu cầu bảo hộ và các tài liệu khác liên quan”.
Điều 100 mới không còn liệt kê các loại tài liệu như giấy ủy quyền, tài liệu quyền ưu tiên, tài liệu về nguồn gen…, nhưng không có nghĩa các tài liệu này bị bãi bỏ.
Bên cạnh đó, Quy định cũ không đặt ra nguyên tắc chung về phạm vi một đơn đăng ký ngay tại Điều 100. Tuy nhiên theo quy định mới thì “Mỗi đơn đăng ký sở hữu công nghiệp chỉ được yêu cầu cấp một văn bằng bảo hộ cho một đối tượng sở hữu công nghiệp duy nhất”;
Ngoài ra, Người nộp đơn chịu trách nhiệm đối với thông tin khai trong đơn. Nếu có căn cứ xác định thông tin không chính xác, không trung thực, văn bằng bảo hộ có thể bị thu hồi.
7. Siết chặt trách nhiệm của nền tảng số và doanh nghiệp trung gian
Luật sửa đổi Điều 198, đổi tên thành quy định về trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian và chủ quản nền tảng số.
Cụ thể sửa đổi, bổ sung tên Điều như sau:
“Điều 198b. Trách nhiệm pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian và chủ quản nền tảng số”;
b) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau:
“1. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là doanh nghiệp cung cấp phương tiện kỹ thuật, nền tảng số để tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ đưa nội dung thông tin số lên không gian mạng; cung cấp kết nối trực tuyến cho công chúng tiếp cận, sử dụng nội dung thông tin số trên không gian mạng.”;
c) Bổ sung khoản 5a vào sau khoản 5 như sau:
“5a. Chủ quản nền tảng số có trách nhiệm triển khai các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên không gian mạng theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, an ninh mạng và quy định khác của pháp luật có liên quan.”.
Theo đó:
Doanh nghiệp trung gian, chủ quản nền tảng số phải triển khai các biện pháp bảo vệ quyền SHTT trên không gian mạng; Phải phối hợp với chủ thể quyền và cơ quan nhà nước khi phát hiện vi phạm.
Ngoài ra Luật còn sửa đổi sâu rộng thủ tục đăng ký, thẩm định và cấp văn bằng bảo hộ. Cụ thể, sửa đổi hàng loạt điều từ Điều 89 đến Điều 119, với các điểm nổi bật như:
- Mở rộng nộp đơn điện tử, công bố sớm đơn đăng ký nhãn hiệu;
- Rút ngắn thời gian thẩm định, bổ sung cơ chế thẩm định nhanh;
- Làm rõ quyền phản đối của bên thứ ba;
- Tăng trách nhiệm của người nộp đơn về tính trung thực của thông tin...
Trên đây là điểm mới Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2025. Lưu ý: Nội dung trong bài viết về Luật Giáo dục sửa đổi 2025 được dựa trên bản dự thảo Luật mới nhất trình Quốc hội thông qua. LuatVietnam sẽ tiếp tục cập nhật thông tin khi có văn bản Luật chính thức.