- 1. Bổ sung phạm vi điều chỉnh
- 2. Bổ sung, hoàn thiện thẩm quyền giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản của Tòa án
- 3. Bổ sung, mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản
- 4. Bổ sung quy định phải từ chối tham gia phục hồi những trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
- 5. Tách biệt thủ tục phục hồi
- 6. Giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản trên nền tảng trực tuyến
- 7. Thủ tục phá sản
- 7.1 Mở rộng nhóm người có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
1. Bổ sung phạm vi điều chỉnh
Theo Điều 1 Luật Phá sản 2014, phạm vi điều chỉnh của Luật chủ yếu tập trung vào các trình tự, thủ tục phá sản, bao gồm nộp đơn, thụ lý, mở thủ tục phá sản; xác định nghĩa vụ về tài sản và biện pháp bảo toàn tài sản; thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; tuyên bố phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Quy định này chưa đề cập đến nguyên tắc giải quyết vụ việc, chưa làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành thủ tục, cũng như quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phá sản.
Trong khi đó, Điều 1 Luật Phá sản sửa đổi 2025, đã mở rộng và bổ sung phạm vi điều chỉnh khi quy định thêm nguyên tắc giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản, đồng thời xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành thủ tục và quyền, nghĩa vụ của người tham gia thủ tục phục hồi, phá sản. Bên cạnh đó, điều luật mới cũng làm rõ đối tượng áp dụng là doanh nghiệp, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.
2. Bổ sung, hoàn thiện thẩm quyền giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản của Tòa án
Theo Điều 8 Luật Phá sản 2014, thẩm quyền giải quyết phá sản được xác định tương đối đơn giản và hẹp. Cụ thể, Tòa Phá sản thuộc Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính trên địa bàn; các vấn đề chi tiết khác được giao cho Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn. Quy định này chủ yếu tập trung vào thủ tục phá sản trong nước, chưa làm rõ phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ, chưa phân định rõ thẩm quyền giữa các cấp Tòa án và chưa đề cập đến phục hồi, phá sản có yếu tố nước ngoài.
Điều 6 Luật Phá sản sửa đổi 2025, thẩm quyền của Tòa án được mở rộng và quy định cụ thể, toàn diện hơn. Trước hết, luật mới xác định rõ Tòa án nhân dân khu vực là chủ thể có thẩm quyền giải quyết cả vụ việc phục hồi và phá sản, không chỉ riêng phá sản như trước. Phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ được quy định rõ ràng và giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xác định, thay vì chỉ dẫn chung như luật cũ.
Đáng chú ý, Điều 6 bổ sung chi tiết các căn cứ xác định thẩm quyền, bao gồm: Tòa án nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính; Tòa án nơi người phải thi hành cư trú, làm việc hoặc nơi có tài sản liên quan trong trường hợp công nhận và cho thi hành bản án, quyết định về phục hồi, phá sản của nước ngoài; cũng như thẩm quyền giải quyết yêu cầu hỗ trợ vụ việc phục hồi, phá sản của nước ngoài. Đây là nội dung hoàn toàn mới, thể hiện sự tiếp cận phù hợp với bối cảnh hội nhập và xử lý các vụ việc phá sản xuyên biên giới.
Bên cạnh đó, luật mới còn phân định rõ thẩm quyền theo cấp Tòa án. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét lại, giải quyết kháng nghị đối với quyết định của Tòa án nhân dân khu vực; còn Tòa án nhân dân tối cao được giao thẩm quyền xem xét lại theo thủ tục đặc biệt và giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân khu vực.
3. Bổ sung, mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản
Theo Điều 9 Luật Phá sản 2014, Luật chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong thủ tục phá sản, với trọng tâm là xem xét việc mở hay không mở thủ tục phá sản, chỉ định và giám sát Quản tài viên, quyết định bán tài sản để bảo đảm chi phí phá sản, tổ chức Hội nghị chủ nợ, công nhận nghị quyết Hội nghị chủ nợ, đình chỉ hoặc tuyên bố phá sản. Thẩm phán cũng được trao một số thẩm quyền mang tính hỗ trợ, như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, xử phạt hành chính hoặc kiến nghị xử lý hình sự.
Tuy nhiên, phạm vi quyền hạn vẫn giới hạn trong phá sản, chưa bao quát giai đoạn phục hồi, chưa quy định rõ vai trò chủ động của Thẩm phán trong việc thu thập, kiểm tra chứng cứ, hòa giải tranh chấp hay xử lý yếu tố nước ngoài.
Điều 7 Luật Phá sản sửa đổi 2025 quy định, nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán được mở rộng toàn diện, gắn với việc giải quyết vụ việc phục hồi và phá sản. Ngoài việc kế thừa các thẩm quyền cơ bản như chỉ định, giám sát Quản tài viên, quyết định kiểm toán, bán tài sản, tổ chức Hội nghị chủ nợ, đình chỉ thủ tục và tuyên bố phá sản, luật mới bổ sung nhiều quyền hạn mới, quan trọng.
Cụ thể, Thẩm phán được giao vai trò chủ động hơn trong việc hướng dẫn, yêu cầu và kiểm tra việc thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ; trực tiếp yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin liên quan. Luật cũng bổ sung thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục phục hồi rút gọn và phá sản rút gọn, thể hiện rõ định hướng rút ngắn thời gian, đơn giản hóa thủ tục.
Bên cạnh đó, Điều 7 còn bổ sung các nội dung hoàn toàn mới so với Điều 9, như: quyền công nhận hoặc không công nhận nghị quyết Hội nghị chủ nợ; quyền áp dụng án lệ; quyền tiến hành hòa giải tranh chấp liên quan đến tài sảncủa doanh nghiệp, hợp tác xã; quyền xem xét, hỗ trợ và giải quyết các vụ việc phục hồi, phá sản có yếu tố nước ngoài, bao gồm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
Đồng thời, luật mới còn thiết lập cơ chế tổ Thẩm phán và giao Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành quy chế làm việc, góp phần chuyên môn hóa và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ việc.
4. Bổ sung quy định phải từ chối tham gia phục hồi những trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
Tại khoản 2 Điều 11 Luật Phá sản sửa đổi 2025 bổ sung quy định một khoản riêng quy định cụ thể các trường hợp Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải từ chối tham gia hoặc bị thay đổi, như có lợi ích liên quan, là người thân thích của người đại diện theo pháp luật, đồng thời tham gia với tư cách khác trong vụ việc, không bảo đảm tính vô tư, khách quan hoặc gặp sự kiện bất khả kháng.
Tại Điều 45 Luật Phá sản 2014 chưa quy đinh cụ thể về từ chối tham gia phục
5. Tách biệt thủ tục phục hồi
Đây là điểm đổi mới quan trọng so với Luật Phá sản 2014, trong đó thủ tục phục hồi chỉ được xem là một bước phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản. Cách tiếp cận mới này nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán được tái cơ cấu, khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, qua đó hạn chế tối đa việc phải tuyên bố phá sản.
Người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi là người đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ sở hữu, thành viên hợp danh, cổ đông hoặc nhóm cổ đông của công ty; thành viên, nhóm thành viên của hợp tác xã;
Xử lý, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi; quyết định mở hoặc không mở thủ tục phục hồi; thủ tục giải quyết đề nghị xem xét lại, kiến nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục phục hồi của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền; việc lập danh sách chủ nợ người mắc nợ;
Xây dựng phương án, thời hạn phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động kinh doanh được phép và bị cấm của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phục hồi. Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã có quyền thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh;
Công tác giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phục hồi; giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; thủ tục tạm đình chỉ thi hành án dân sự; các trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ và hậu quả của việc đình chỉ thủ tục phục hồi, việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh;
Hội nghị chủ nợ, nhiệm vụ, quyền hạn của người tham gia hội nghị chủ nợ. Việc công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo đó nghị quyết của hội nghị chủ nợ được thông qua khi có số chủ nợ đại diện cho từ 65% tổng số nợ của chủ nợ tham gia biểu quyết tán thành.
6. Giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản trên nền tảng trực tuyến
Điều 23 Luật Phá sản sửa đổi 2025 quy định bổ sung, việc giải quyết thủ tục của cơ quan nhà nước đang thực hiện theo hướng tự động và số hóa trên nền tảng trực tuyến để giải quyết công việc nhanh gọn, tiết kiệm thời gian. Với mục đích phù hợp với xu thế thực tế, dự thảo Luật Phá sản có các quy định mới về quá trình giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản bằng hình thức trực tuyến. Các thủ tục có thể được thực hiện trên nền tảng trực tuyến gồm
Cấp, tống đạt, thông báo, gửi văn bản;
Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi, phá sản;
Nộp lệ phí, tạm ứng chi phí, chi phí phục hồi, phá sản;
Cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ;
Phiên họp giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản;
Ủy thác trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản;
Hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
7. Thủ tục phá sản
7.1 Mở rộng nhóm người có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Điều 24 Luật Phá sản sửa đổi 2025, đã mở rộng nhóm chủ thể này bằng việc bổ sung thành viên sở hữu tỷ lệ lớn vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, đồng thời quy định thêm quyền, nghĩa vụ nộp đơn của một số cơ quan nhà nước như cơ quan quản lý thuế và cơ quan bảo hiểm xã hội khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ theo quy định.
7.2 Bổ sung quy định xử lý trường hợp chủ nợ gửi giấy đòi nợ
- Trường hợp đã thi hành xong phương án phân chia tài sản thì Tòa án ra thông báo về việc không chấp nhận yêu cầu đòi nợ của chủ nợ;
- Trường hợp chưa thi hành xong phương án phân chia tài sản thì Tòa án quyết định điều chỉnh lại phương án phân chia tài sản.
8. Bổ sung thủ tục phục hồi, phá sản rút gọn
8.1 Thủ tục phục hồi rút gọn
Điều 68 Luật Phá sản sửa đổi 2025 quy định, áp dụng thủ tục phục hồi rút gọn đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã đáp ứng điều kiện nhất định nhằm rút ngắn thời gian, đơn giản hóa trình tự giải quyết.Theo đó, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Thẩm phán xem xét và quyết định áp dụng thủ tục phục hồi rút gọn đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có không quá 20 chủ nợ không có bảo đảm và tổng nợ gốc từ 10 tỷ đồng trở xuống; doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết, nếu phát sinh căn cứ cho thấy vụ việc không còn đáp ứng điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, Tòa án quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục phục hồi thông thường. Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết việc thực hiện thủ tục này.
8.2 Thủ tục phá sản rút gọn
Điều 70 Luật Phá sản sửa đổi 2025 quy định áp dụng thủ tục phá sản rút gọn đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có quy mô nhỏ, số lượng chủ nợ và giá trị nợ thấp; doanh nghiệp không còn hoặc không đủ tài sản để chi trả chi phí phá sản; tổ chức tín dụng; doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm không khắc phục được tình trạng bị kiểm soát, cùng các trường hợp khác theo quy định pháp luật. Việc áp dụng đối với tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện theo pháp luật chuyên ngành; Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện.Trên đây là nội dung bài viết "Điểm mới của Luật Phá sản sửa đổi"