Đánh nhau có tổ chức phạt như nào? Có phải đi tù không?

Đánh nhau có tổ chức phạt như nào? Có phải đi tù không? Đánh nhau có tổ chức bồi thường thiệt hại như thế nào? Cùng tìm hiểu các quy định liên quan đến hành vi “đánh nhau có tổ chức” thông qua bài viết sau đây.

1. Đánh nhau có tổ chức là gì?

Đánh nhau có tổ chức là gì?

Tuy hiện nay các quy định pháp luật không có quy định cụ thể về khái niệm “đánh nhau có tổ chức”, nhưng có thể hiểu đánh nhau có tổ chức là việc có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng nhau thực hiện hành vi bạo lực, gây thương tích cho người khác.

Căn cứ khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có quy định “phạm tội có tổ chức” được hiểu là một hình thức đồng phạm mà có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng nhau thực hiện tội phạm.

Theo đó, “Phạm tội có tổ chức” là trường hợp mà nhiều người cùng cố ý bàn bạc, cấu kết chặt chẽ và vạch ra kế hoạch thực hiện tội phạm có sự điều khiển của người đứng đầu.

Mỗi người trong kế hoạch này thực hiện một hoặc nhiều hành vi và cùng chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Trong trường hợp này, mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự sẽ phụ thuộc vào vai trò của mỗi người tham gia vào tội phạm và quy mô của vụ án đó.

2. Đánh nhau có tổ chức phạt như nào? 

Đánh nhau có tổ chức phạt như nào? (Ảnh minh họa)
  • Xử phạt hành chính 

Nghị định xử phạt hành chính hiện nay chưa có quy định cụ thể mức xử phạt đối với hành vi đánh nhau có tổ chức, tuy nhiên căn cứ vào hành vi cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng và các tình tiết khác, thì việc đánh nhau có tổ chức có thể bị xử phạt hành chính với các mức phạt như sau:

- Phạt hành chính từ 01 - 02 triệu đối với hành vi tổ chức, tham gia tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng (căn cứ điểm b khoản 2 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP);

- Phạt hành chính từ 02 - 03 triệu đối với hành vi tổ chức/thuê/xúi giục/lôi kéo/dụ dỗ/kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe người khác... nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (căn cứ điểm b khoản 3 Điều 7);

- Phạt tiền từ 05 - 08 triệu đối với các hành vi cố ý gây thương tích/gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự,...

*Hình phạt hình sự

Phạm tội có tổ chức là một trong các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

Tuy nhiên cần lưu ý nếu “phạm tội có tổ chức đã được quy định là dấu hiệu định khung thì không còn được coi là tình tiết tăng nặng.

Theo đó, tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung bởi Luật số 12/2017/QH14) một trong những dấu hiệu của cấu thành cơ bản của Tội cố ý gây thương tích đối với  trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% là dấu hiệu “Có tổ chức”.

Theo đó, nếu các chủ thể có hành vi đánh nhau có tổ chức có thể bị truy cứu hình sự về Tội cố ý gây thương tích tại Điều 134 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 với 5 khung hình phạt như sau:

- Khung hình phạt cơ bản: cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm (khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015)

- Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm - 06 năm (khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015)

- Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 05 năm - 10 năm (khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015)

- Khung hình phạt tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 07 năm - 14 năm (khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015)

- Khung hình phạt tăng nặng thứ tư có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân k(khoản 5 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015)

3. Trách nhiệm bồi thường khi đánh nhau có tổ chức

Căn cứ khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định như sau:

“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Như vậy, khi bị xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên có hành vi gây thương tích bồi thường.

Việc bồi thường này có thể được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên, trường hợp không thể thỏa thuận được, anh/chị có thể tiến hành khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại tại Tòa án.

Đồng thời căn cứ Điều 587 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định như sau

“Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.”

Như vậy, hành vi “đánh nhau có tổ chức” mà gây ra thiệt hại cho người khác thì những người cùng nhau thực hiện hành vi gây thương tích phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.

Đồng thời, trách nhiệm bồi thường của mỗi người đối với mức thiệt hại được xác định theo nguyên tắc tương ứng với mức độ lỗi của từng người.

Trong trường hợp không xác định được mức độ lỗi thì những người cùng thực hiện việc gây thương tích cho người khác phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

Trên đây là giải đáp chi tiết về vấn đề: Đánh nhau có tổ chức phạt như nào? Có phải đi tù không?
Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài 19006192 để được hỗ trợ.
Chia sẻ:
Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Vì sao phản đối nhãn hiệu lại cần thiết ở Việt Nam?

Nhiều chủ nhãn hiệu có thể nghĩ rằng, thẩm định viên tại Cục SHTT Việt Nam sẽ tự động từ chối các đơn đăng ký nhãn hiệu bị xem là tương tự rõ ràng với các nhãn hiệu có trước, nhưng thực tế có thể khác biệt một cách bất ngờ. Việc cho rằng các nhãn hiệu rất giống nhau, đặc biệt là những nhãn hiệu đăng ký cho các hàng hóa và dịch vụ tương tự hoặc liên quan, chắc chắn sẽ bị từ chối, là một lầm tưởng phổ biến. Vì những lý do không lường trước được trong quá trình thẩm định, ngay cả những nhãn hiệu có vẻ tương tự gây nhầm lẫn đôi khi vẫn có thể được bảo hộ.

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam có miễn trừ trách nhiệm vi phạm bản quyền?

Nhãn hiệu và bản quyền - hai khái niệm tưởng chừng như quen thuộc nhưng lại ẩn chứa vô vàn những vấn đề pháp lý phức tạp. Nhiều người lầm tưởng rằng, có được Giấy chứng nhận Đăng ký Nhãn hiệu là "vô tư" sử dụng logo mà không cần quan tâm đến bất kỳ điều gì khác. Tuy nhiên, thực tế lại không hề đơn giản như vậy. Thực tế chỉ ra rằng, việc đăng ký nhãn hiệu và vấn đề vi phạm bản quyền là hai phạm trù pháp lý hoàn toàn khác biệt. KENFOX IP & Law Office phân tích những khác biệt cốt lõi, khám phá những điểm giao thoa và đặc biệt, làm sáng tỏ lý do vì sao, ngay cả khi bạn đã có nhãn hiệu được đăng ký, nguy cơ vi phạm bản quyền vẫn luôn rình rập.

Thế chấp tài sản trí tuệ - Nhãn hiệu tại Việt Nam: Phân tích pháp lý và triển vọng thị trường

Việt Nam đang khẳng định vị thế là một nền kinh tế năng động, hội nhập quốc tế sâu rộng và đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, và vai trò của tài sản trí tuệ (TSTT) ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như công nghệ, thương mại điện tử và dược phẩm. Cùng với sự gia tăng đầu tư nước ngoài, một vấn đề pháp lý then chốt được đặt ra là: Khung pháp lý hiện hành của Việt Nam có đủ khả năng bảo đảm TSTT được công nhận và bảo vệ như một loại tài sản có thể thế chấp, từ đó tạo điều kiện cho việc sử dụng TSTT như một công cụ tài chính hữu hiệu cho doanh nghiệp và nhà đầu tư hay không?