Công văn về việc điều kiện giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và truy nã đối với bị cáo

thuộc tính Công văn 73/1999/KHXX

Công văn về việc điều kiện giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và truy nã đối với bị cáo
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân tối cao
Số công báo:Đang cập nhật
Số hiệu:73/1999/KHXX
Ngày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Công văn
Người ký:Trịnh Hồng Dương
Ngày ban hành:16/07/1999
Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:Đang cập nhật
Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực:

tải Công văn 73/1999/KHXX

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

CÔNG VĂN

CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 73/1999/KHXX
NGÀY 16 THÁNG 7 NĂM 1999 VỀ VIỆC ĐIỀU KIỆN GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ VÀ TRUY Nà ĐỐI VỚI VỊ CÁO

 

Kính gửi: Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị

 

Sau khi nghiên cứu Công văn số 482/CV-TA ngày 9-6-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Trị, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:

1. Tại điểm 2 Mục III Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN ngày 15-8-1989 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ "về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù", có hướng dẫn: "Nói chung, mỗi người, mỗi năm chỉ được xét giảm một lần. Tuy nhiên, nếu sau khi được giảm án mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng thêm như lập công lớn, mắc bệnh hiểm nghèo, thì có thể được xét giảm thêm một lần trong năm đã được giảm". Cụm từ "mỗi năm" trong hướng dẫn này cần được hiểu là tính theo lịch (năm 1998, năm 1999), chứ không phải mỗi năm được tính tròn 12 tháng kể từ lần giảm thứ nhất đến lần xét giảm thứ hai. Tuy nhiên cần lưu ý là khi xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù các Toà án cần phải thực hiện đúng các hướng dẫn về điều kiện và mức giảm được hướng dẫn tại Mục III Thông tư liên ngành nói trên.

2. Theo tinh thần quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, cũng như tinh thần hướng dẫn trong Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, thì thẩm quyền ra quyết định truy nã và đình nã là cơ quan điều tra. Quyết định truy nã chỉ hết hiệu lực khi người bị truy nã đã chết hoặc bị bắt giữ theo Quyết định truy nã hoặc trong trường hợp có quyết định đình nã của cơ quan điều tra; do đó, khi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật, Toà án không cần phải yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục ra Quyết định truy nã mới. Tuy nhiên, cần lưu ý là khi xét xử, xét thấy việc truy nã bị cáo vì hành vi phạm tội đang bị xét xử là không cần thiết nữa, thì Toà án yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định đình nã đối với bị cáo, nếu bị cáo đó không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.

Để được hỗ trợ dịch thuật văn bản này, Quý khách vui lòng nhấp vào nút dưới đây:

*Lưu ý: Chỉ hỗ trợ dịch thuật cho tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao

Lược đồ

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Văn bản này chưa có chỉ dẫn thay đổi
văn bản TIẾNG ANH
* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên

TẠI ĐÂY

văn bản mới nhất