Có được rút đơn yêu cầu khi vụ án hình sự đã được khởi tố?

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại là một chế định có từ rất lâu của luật tố tụng hình sự. Vậy trong trường hợp vụ án hình sự đã được khởi tố, người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố có được hay không?

1. Ai có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự?

Căn cứ theo khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

“Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”.

Như vậy, chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là “người đã yêu cầu khởi tố”. Người đã yêu cầu khởi tố có thể là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại.

Có được rút đơn yêu cầu khi vụ án hình sự đã được khởi tố? (Ảnh minh họa)

2. Có được rút đơn khi vụ án hình sự đã được khởi tố?

Căn cứ tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 có quy định như sau:

“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự năm 2015  khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.”.

Theo đó, các trường hợp bị hại hoặc  người đại diện của họ được rút yêu cầu khởi tố là các tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hoặc nghiêm trọng xâm phạm đến sức khỏe danh dự nhân phẩm và trật tự quản lý kinh tế. Cụ thể là các tội thuộc khoản 1 các điều sau đây:

  • Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

  • Điều 135 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

  • Điều 136 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

  • Điều 138 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác)

  • Điều 139 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính)

  • Điều 141 (Tội hiếp dâm)

  • Điều 143 (Tội cưỡng dâm)

  • Điều 155 (Tội làm nhục người khác)

  • Điều 156 (Tội vu khống)

Theo quy định trên thì với những tội danh quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 của Bộ luật Hình sự, cụ thể là các tội: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội làm nhục người khác,… thì vấn đề khởi tố chỉ được thực hiện khi có yêu cầu từ phía người bị hại, và nếu người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ bị đình chỉ ngừng giải quyết.

Theo đó Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ thể thời điểm người có quyền yêu cầu khởi tố được rút yêu cầu của mình. Vì thế người đã yêu cầu khởi tố có thể rút yêu cầu vào thời điểm ngay sau khi yêu cầu trong giai đoạn điều tra truy tố hoặc chuẩn bị xét xử sơ thẩm hoặc tại phiên tòa sơ thẩm.

3. Hậu quả pháp lý khi rút đơn khởi tố vụ án hình sự

Căn cứ Khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu như sau:

“Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.”

Như vậy, theo quy định trên thì khi vụ án đã được khởi tố nhưng người bị hại tự nguyện rút đơn yêu cầu thì vụ án sẽ được đình chỉ. Điều này có nghĩa là, nếu được người bị hại rút yêu cầu khởi tố, người thực hiện vi phạm có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, không phải vụ án nào cũng sẽ bị đình chỉ khi bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Bởi nếu hành vi phạm tội rơi vào các tội thuộc khoản 1 Điều 155 nêu trên là tộ ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng thì vụ án sẽ bị đình chỉ còn nếu cùng với những tội danh trên mà là tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng thì lúc này vụ án vẫn sẽ được tiếp tục tiến hành truy tố như bình thường.

Lưu ý, sau khi rút đơn, người bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp phải rút yêu cầu do họ bị ép buộc, cưỡng bức bởi người khác

4. Lưu ý về việc rút đơn khởi kiện khi đã khởi tố vụ án hình sự

Khi rút đơn khởi kiện vụ án hình sự trong giai đoạn đã bị khởi tố cần lưu ý những điểm sau đây:

- Người bị hại chỉ có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án tại giai đoạn sơ thẩm (bất kỳ thời điểm nào tại giai đoạn sơ thẩm)

Theo khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã không giới hạn việc người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước phiên toà nên người bị hại có quyền rút yêu cầu của mình tại phiên tòa sơ thẩm thì vụ án được đình chỉ.

Nếu sau khi xét xử sơ thẩm mà người bị hại mới rút yêu cầu khởi tố thì không được chấp nhận mà chỉ coi đây là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì theo Khoản 2 Điều 346 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì tại giai đoạn chuẩn xét xử phúc thẩm thì thẩm phán có quyền Đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Như vậy, thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có thẩm quyền đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Theo Điều 359 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì tại phiên tòa phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền huỷ bản án và đình chỉ trong 02 trường hợp:

  • Thứ nhất: Tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án khi: Không có sự việc phạm tội và hành vi không cấu thành tội phạm;

  • Thứ hai: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.

Như vậy, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng không quy định bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố là căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.

- Người bị hại có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án tại giai đoạn bất cứ thời điểm nào, kể cả tại phiên tòa phúc thẩm

Căn cứ Khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã không giới hạn việc người bị hại rút yêu cầu khởi tố, do đó người bị hại rút yêu cầu khởi tố ở thời điểm nào thì vụ án cũng phải được đình chỉ, kể cả tại phiên tòa phúc thẩm.

Trên đây là giải đáp về Có được rút đơn yêu cầu khi vụ án hình sự đã được khởi tố? Mọi vấn đề còn vướng mắc vui lòng liên hệ 19006192 để được LuatVietnam hỗ trợ, giải đáp cụ thể.

Chia sẻ:
Đánh giá bài viết:

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

Tin cùng chuyên mục

Quy định mới nhất về cung cấp trò chơi điện tử công cộng

Trò chơi điện tử công cộng là một hình thức trò chơi khá đặc thù và chịu sự quản lý chặt chẽ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy Nghị định 147/2024/NĐ-CP đã quy định như thế nào để hoạt động cung cấp trò chơi điện tử công cộng này?

Mẫu báo cáo cung cấp trò chơi điện tử trên mạng

Hiện nay, trò chơi điện tử trên mạng rất đa dạng và được phát hành bởi rất nhiều nhà cung cấp khác nhau. Sau đây là một số quy định mà các nhà cung cấp cần lưu ý về việc báo cáo cung cấp trò chơi điện tử trên mạng này.

Mẫu đơn đề nghị cấp GCN cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4

Trò chơi điện tử trên mạng đang trở nên ngày càng thịnh hành đối với mọi lứa tuổi. Do đó, Nghị định 147/2024/NĐ-CP đã ban hành các quy định dành riêng cho việc cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4 trên mạng cùng với mẫu đơn đề nghị cấp GCN cung cấp trò chơi điện tử G2 G3 G4.