- 1. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong thi hành án dân sự
- 2. Trách nhiệm của Kho bạc Nhà nước và tổ chức tín dụng
- 3. Mô hình tổ chức hệ thống thi hành án dân sự tại địa phương
- 4. Tổ chức hệ thống thi hành án dân sự
- 5. Quy định về Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên
- 6. Bổ sung cơ chế kiểm soát quyền lực và nhiệm kỳ Chấp hành viên, lãnh đạo cơ quan THADS
- 6.1 Lãnh đạo cơ quan THADS
- 6.2 Chấp hành viên
1. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong thi hành án dân sự
Điểm mới đáng chú ý của dự thảo Luật Thi hành án dân sự sửa đổi là lần đầu tiên quy định riêng về chuyển đổi số tại Điều 5.
Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự và văn phòng thi hành án dân sự trong việc bảo đảm an ninh mạng, bảo mật thông tin và an toàn dữ liệu, qua đó nâng cao tính an toàn và tin cậy của hệ thống thông tin thi hành án.
Đặc biệt, Luật công nhận giá trị pháp lý của thủ tục, hồ sơ, tài liệu điện tử trong thi hành án dân sự, cho phép thực hiện thủ tục trên môi trường số với giá trị tương đương văn bản giấy, đồng thời đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về an ninh mạng, an toàn dữ liệu và trách nhiệm pháp lý khi khai thác, sử dụng dữ liệu
Luật Thi hành án dân sự 2008 chưa có quy định rõ ràng, thống nhất về giá trị pháp lý của văn bản, dữ liệu điện tử trong thi hành án dân sự. Trong thực tiễn, việc gửi yêu cầu bằng phương thức điện tử thường bị một số tổ chức tín dụng, ngân hàng trì hoãn hoặc yêu cầu văn bản giấy.
2. Trách nhiệm của Kho bạc Nhà nước và tổ chức tín dụng
Điều 14 mở rộng trách nhiệm của Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng so với Điều 176, nâng mức độ ràng buộc trách nhiệm, khắc phục tình trạng trì hoãn trong thực tiễn thi hành án.
- Điều 176 Luật THADS 2008, trách nhiệm phối hợp đã được quy định nhưng chưa đủ cụ thể, thiếu cơ sở pháp lý mạnh để xử lý tình trạng chậm cung cấp thông tin, chậm phong tỏa tài khoản.
- Điều 14 dự thảo quy định, rõ Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng phải thực hiện kịp thời yêu cầu của cơ quan THADS, không phân biệt yêu cầu bằng văn bản giấy hay điện tử.
3. Mô hình tổ chức hệ thống thi hành án dân sự tại địa phương
Điều 17 dự thảo nhấn mạnh tính thống nhất từ Trung ương đến địa phương, gợi ý cải cách, tinh giản cơ cấu so với Điều 13 Luật hiện hành.
Bỏ cấp huyện/quận/thị xã trong cơ quan thi hành án dân sự, chỉ giữ cấp tỉnh và quân khu, làm hệ thống gọn hơn.
Tên gọi ngắn gọn: từ “Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự” → “Hệ thống thi hành án dân sự”.
4. Tổ chức hệ thống thi hành án dân sự
Điều 18 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi hoàn thiện mô hình tổ chức THADS theo kết luận số 162-KL/TW, gồm cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp, hệ thông cơ quan THDS cấp tỉnh và phòng THADS khu vực.
Điều 23 dự thảo Luật THADS sửa đổi, lần đầu tiên xác lập vị trí Chấp hành viên trưởng, phân định rõ quyền hạnh, trách nhiệm chỉ đạo, giám sát các Chấp hành viên khác, từ đó tăng hiệu quả quản lý và tổ chức thi hành án trong khu vực.
Điều 17 Luật hiện hành chỉ quy định cơ bản về Chấp hành viên
Chưa có quy định chức danh “Chấp hành viên trưởng” tại Phòng THADS khu vực; thẩm quyền chỉ đạo, điều hành còn phân tán.Điều 23 Luật sửa đổi, bổ sung chức danh tư pháp “Chấp hành viên trưởng”, bổ nhiệm đối với Trưởng phòng THADS khu vực.
Dự thảo Luật quy định hệ thống thi hành án dân sự gồm cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, 34 cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và 355 Phòng Thi hành án dân sự khu vực trực thuộc cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.
5. Quy định về Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên
Mục 2 Chương II dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) quy định thêm về “Văn phòng thi hành án dân sự” và “Thừa hành viên”, theo hướng: chưa trao quyền cưỡng chế thi hành án toàn diện cho Văn phòng THADS. Thừa hành viên chỉ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền thực hiện phong tỏa tài khoản, tài sản, tạm dừng giao dịch để ngăn chặn tẩu tán tài sản.
Luật Thi hành án dân sự 2008 không quy định về “Văn phòng thi hành án dân sự” và “Thừa hành viên”
6. Bổ sung cơ chế kiểm soát quyền lực và nhiệm kỳ Chấp hành viên, lãnh đạo cơ quan THADS
6.1 Lãnh đạo cơ quan THADS
So với Điều 23 Luật hiện hành, Điều 22 dự thảo đã được rà soát, sửa đổi và bổ sung theo hướng quy định đầy đủ, cụ thể hơn về thẩm quyền và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Theo đó, Điều 22 không chỉ kế thừa các nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản mà còn làm rõ hơn phạm vi quyết định, quản lý, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động thi hành án dân sự, trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử phạt vi phạm hành chính và kiến nghị xử lý vi phạm.
Đồng thời, Điều 22 đã thể chế hóa rõ hơn cơ chế kiểm soát quyền lực thông qua quy định chặt chẽ về phân công, ủy quyền gắn với trách nhiệm pháp lý của người phân công và người được ủy quyền, cũng như bổ sung các nhiệm vụ liên quan đến kiểm tra, giám sát, báo cáo, thống kê và phối hợp liên ngành.
6.2 Chấp hành viên
So với Điều 18 Luật THADS 2008 , Điều 24 dự thảo đã bổ sung, làm rõ tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Chấp hành viên, nâng cao tính minh bạch, thống nhất trong quản lý đội ngũ Chấp hành viên.
Điểm mới quan trọng là quy định Chấp hành viên được bổ nhiệm lần đầu vào ngạch sơ cấp có nhiệm kỳ 05 năm, việc bổ nhiệm lại thực hiện theo nhiệm kỳ đến khi nghỉ hưu, chuyển công tác hoặc nâng ngạch. Quy định này góp phần kiểm soát quyền lực, gắn trách nhiệm với nhiệm kỳ bổ nhiệm, ngăn ngừa vi phạm và nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động thi hành án dân sự.
7. Đổi mới cơ chế kiểm sát và giám sát tư pháp trong thi hành án dân sự
7.1 Viện kiểm sát
Mở rộng phạm vi kiểm sát: Điều 12 dự thảo quy định Viện kiểm sát nhân dân các cấp kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, văn phòng thi hành án dân sự, Thừa hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thi hành án dân sự. Trong khi Điều 171 chỉ nêu Viện kiểm sát tối cao phối hợp với Bộ Tư pháp ban hành văn bản, tổng kết công tác, chỉ đạo kiểm sát.
Điều 12 bổ sung quyền yêu cầu, kiến nghị khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát nhân dân các cấp, trong khi Điều 171 Luật hiện hành không đề cập.
Điều 12 bổ sung nhiệm vụ phối hợp trong việc tạo lập, kết nối, chia sẻ, khai thác cơ sở dữ liệu về thi hành án dân sự, còn Điều 171 chỉ nêu tổng kết và ban hành văn bản.
7.2 Toà án
Tăng cường trách nhiệm giám sát và phối hợp: Điều 170 dự thảo bổ sung cụ thể việc Tòa án các cấp phải giải quyết kiến nghị, yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự và theo dõi kết quả xử lý sau khi trả lời, trong khi Điều 11 chỉ nêu phối hợp và trả lời kiến nghị.
Xử lý vụ án đã thi hành một phần khi xét lại: Điều 170 bổ sung quy định khi xét xử lại vụ án bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã thi hành theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy, là điểm mới không có trong Điều 11.
Cụ thể hóa thẩm quyền các cấp Tòa án: Điều 170 chi tiết hóa quyền hạn của Tòa án quân sự trung ương, Tòa án cấp tỉnh, Tòa án khu vực và tương đương, nêu rõ báo cáo kết quả thi hành án, trả lời kiến nghị, giải quyết kháng nghị, xem xét tái thẩm, miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án - trong khi Điều 11 chỉ nêu chung chung nhiệm vụ, quyền hạn.
8. Rút gọn thời hạn và thủ tục trong thi hành án dân sự
8.1 Về việc xác minh điều kiện thi hành án
Trước đây, theo Điều 44 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên có thời hạn 10 ngày để xác minh điều kiện thi hành án và phải thực hiện xác minh định kỳ đối với người chưa có điều kiện thi hành. Việc xác minh, trách nhiệm cung cấp thông tin và quyền hạn của Chấp hành viên còn khá chung chung.
Điều 37 dự thảoLuật sửa đổi, rút ngắn thời hạn xác minh xuống còn 7 ngày, cho phép Chấp hành viên khai thác cơ sở dữ liệu, phối hợp với cơ quan, tổ chức, chuyên gia để xác minh tài sản, thu nhập và các điều kiện thi hành án. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của người phải thi hành án và cơ quan, tổ chức liên quan trong việc cung cấp thông tin, với cơ chế xử lý khi có hành vi cản trở.
8.2 Về việc thi hành án chưa điều kiện
Trước đây, theo Điều 44a Luật Thi hành án dân sự 2008, cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án dựa trên các trường hợp cơ bản như người phải thi hành án không có tài sản, thu nhập, vật đặc định bị mất hoặc hư hỏng, chưa xác định được địa chỉ cư trú… Thông tin về người chưa có điều kiện thi hành được công khai trên cổng thông tin điện tử và niêm yết tại UBND cấp xã.
Điều 38 dự thảo Luật sửa đổi, giữ nguyên các căn cứ cơ bản nhưng bổ sung chi tiết hơn với nhiều trường hợp cụ thể, như: tài sản đang cầm cố, thế chấp; nghĩa vụ gắn với nhân thân; bán tài sản thi hành án nhưng giá trị đã giảm dưới chi phí cưỡng chế; và nhiều quy định về việc xác minh khi có thông tin mới.
Đồng thời, rút ngắn thời hạn ra quyết định xuống 5 ngày; quy định rõ xác minh định kỳ 6 tháng/1 năm, gửi lại yêu cầu sau 2 năm nếu không có thông tin mới; và tăng cường quyền của Chấp hành viên khi nhận thông tin mới từ đương sự hoặc cơ quan khác.
8.3 Rút gọn thủ tục xác định tài sản
Theo Khoản 1 Điều 39 Luật sửa đổi quy định, hết 30 ngày mà các bên không thoả thuận hoặc không yêu cầu Toà án thì Chấp hành viên trực tiếp yêu cầu Toà án, không qua bước chờ người được thi hành án yêu cầu.
Tại Điều 74 Luật cũ quy đinh, việc Chấp hành viên yêu cầu Tòa án chỉ được thực hiện sau 2 bước trung gian: thông báo cho người được thi hành án và chờ thêm 15 ngày
8.4 Bỏ thủ tục cho đương sự thỏa thuận về mức giảm giá sau khi tài sản bán đấu giá không thành
Khác với quy định tại Điều 104 Luật THADS cũ yêu cầu Chấp hành viên phải thông báo và chờ đương sự thỏa thuận mức giảm giá tài sản trong thời hạn nhất định, quy định mới tại khoản 3 Điều 83 cho phép Chấp hành viên chủ động ra quyết định giảm giá ngay khi đấu giá không thành.
Đây là điểm mới quan trọng, giúp cắt giảm một khâu thủ tục trung gian vốn thường kéo dài và kém hiệu quả.
8.5 Thời gian ký hợp đồng khai thác tài sản thi hành án
3. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày yêu cầu mà người phải thi hành án không ký hợp đồng khai thác với người khác thì Chấp hành viên kê biên, xử lý tài sản đó để thi hành án.
Điểm c khoản 2 Điều 77 dự thảo quy định
c) Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu mà người phải thi hành án không ký hợp đồng để khai thác với người khác thì Chấp hành viên kê biên, xử lý tài sản đó để thi hành án.
Vậy, rút gọn thời hạn từ 30 ngày còn 10 ngày về ký hợp đồng khai thác tài sản thi hành án
8.6 Thời hạn ưu tiên mua tài sản thi hành án
Căn cứ khoản 1 Điều 83 dự thảo quy định1. Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung hoặc trường hợp bản án, quyết định tuyên hoặc pháp luật quy định tổ chức, cá nhân được quyền ưu tiên mua tài sản, Chấp hành viên thông báo cho chủ sở hữu chung, tổ chức, cá nhân về quyền ưu tiên mua tài sản thi hành án theo giá khởi điểm.
Thời hạn thực hiện quyền ưu tiên mua là 15 ngày đối với bất động sản, 05 ngày làm việc đối với động sản kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà người được ưu tiên mua không nộp tiền mua thì tài sản được bán theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì có quyền ưu tiên mua trước thời điểm mở cuộc đấu giá 03 ngày làm việc.
Khoản 3 Điều 74 Luật hiện hành quy đinh thời hạn, như sau:
Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật này.
Vậy, thời hạn ưu tiên mua tài sản thi hành án từ 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày còn 15 ngày đối với bất động sản, 05 ngày làm việc đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 03 ngày.
9. Lần đầu quy định biện pháp cưỡng chế kiểm tra hiện trạng tài sản
- Chấp hành viên được áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế đồng thời, tùy theo tình huống cụ thể, tạo sự linh hoạt chủ động cho Chấp hành viên
Căn cứ tại Điều 71 dự thảo Luật THADS ( sửa đổi) quy định, Điều 71 Luật hiện hành không quy định về nội dung này
Điều 71. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án Người phải thi hành án bị áp dụng một hoặc một số biện pháp cưỡng chế thi hành án sau đây:
Khoản 1 Điều 72 Luật THADS sửa đổi quy định
Điều 72. Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
1. Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này, người phải thi hành án có điều kiện mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Luật này.
Vì vậy, Chấp hành viên được áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế đồng thời, tùy theo tình huống cụ thể
- Bổ sung biện pháp cưỡng chế kiểm tra hiện trạng tài sản
Luật Thi hành án dân sự 2008 không quy định biện pháp cưỡng chế kiểm tra hiện trạng tài sản.
Tại điểm đ khoản 2 Điều 80 Luật THADS sửa đổi có quy định thêm về biện pháp kiểm tra hiện trạng.
Trên đây là nội dung bài viết "8 điểm mới đáng chú ý về Luật Thi hành án dân sự sửa đổi"