Nhiều trường hợp doanh nghiệp quy định người lao động phải nghỉ hết phép năm trước khi nghỉ việc để tránh phải thanh toán tiền cho những ngày chưa nghỉ. Điều này có đúng luật hay không? Câu hỏi đã được AI Luật giải đáp.
Lưu ý: Toàn bộ nội dung trả lời cho các câu hỏi dưới đây đều do AI Luật - Trợ lý ảo Luật Việt Nam cung cấp. AI Luật đang từng bước hoàn thiện mỗi ngày nên có thể mắc lỗi. Bạn hãy cân nhắc kỹ và kiểm tra lại những thông tin quan trọng khi tham khảo.
AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Điều 113 Bộ luật Lao động của Quốc hội, số 45/2019/QH14 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, quy định về nghỉ hằng năm như sau:
- Người sử dụng lao động có trách nhiệm quy định lịch nghỉ hằng năm sau khi tham khảo ý kiến của người lao động và phải thông báo trước cho người lao động biết.
- Người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động để nghỉ hằng năm thành nhiều lần hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, người lao động có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc nghỉ hằng năm, bao gồm cả việc nghỉ gộp tối đa 03 năm một lần. Do đó, quy định của công ty yêu cầu người lao động phải sử dụng hết phép năm trước ngày nghỉ việc là không phù hợp với quy định của pháp luật. Người lao động có quyền thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc nghỉ phép năm, bao gồm cả việc nghỉ gộp.
AI Luật trả lời:
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động của Quốc hội, số 45/2019/QH14 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, quy định về việc thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ hằng năm như sau:
Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.
Ngoài ra, căn cứ vào Khoản 3 Điều 67 Nghị định 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01/02/2021, quy định về tiền lương ngày nghỉ hằng năm như sau:
Tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm theo khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, công ty bắt buộc phải thanh toán tiền lương cho những ngày nghỉ hằng năm mà người lao động chưa nghỉ khi thôi việc hoặc bị mất việc làm. Tuy nhiên, để tránh việc phải thanh toán tiền lương cho những ngày nghỉ hằng năm chưa nghỉ, công ty có thể thực hiện các giải pháp sau:
- Lập kế hoạch nghỉ phép: Công ty có thể lập kế hoạch nghỉ phép hàng năm và thông báo cho người lao động từ sớm để họ có thể sắp xếp thời gian nghỉ phép hợp lý.
- Thỏa thuận với người lao động: Công ty có thể thỏa thuận với người lao động về việc sử dụng hết số ngày nghỉ phép năm trước khi nghỉ việc. Điều này có thể được thực hiện thông qua các cuộc họp hoặc trao đổi trực tiếp với người lao động.
- Khuyến khích nghỉ phép: Công ty có thể khuyến khích người lao động sử dụng hết số ngày nghỉ phép năm bằng cách tạo ra các chính sách khuyến khích, chẳng hạn như thưởng thêm ngày nghỉ hoặc các phúc lợi khác nếu người lao động sử dụng hết số ngày nghỉ phép năm.
Tuy nhiên, nếu người lao động không thể nghỉ hết số ngày nghỉ phép năm trước khi nghỉ việc, công ty vẫn phải tuân thủ quy định của pháp luật và thanh toán tiền lương cho những ngày nghỉ phép chưa nghỉ.
AI Luật trả lời:
Để tính số ngày nghỉ tính lương cho người lao động làm việc trong điều kiện bình thường, chúng ta cần xem xét các quy định liên quan đến nghỉ hằng năm và thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ hằng năm.
1. Số ngày nghỉ hằng năm
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 113 Bộ luật Lao động của Quốc hội, số 45/2019/QH14 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 thì:
- Người lao động làm việc đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:
- 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường.
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 113 Bộ luật Lao động của Quốc hội, số 45/2019/QH14 thì:
- Người lao động làm việc chưa đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì số ngày nghỉ hằng năm theo tỷ lệ tương ứng với số tháng làm việc.
2. Cách tính số ngày nghỉ hằng năm
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 66 Nghị định 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01/02/2021 thì:
- Số ngày nghỉ hằng năm của người lao động làm việc chưa đủ 12 tháng được tính như sau: lấy số ngày nghỉ hàng năm cộng với số ngày được nghỉ tăng thêm theo thâm niên (nếu có), chia cho 12 tháng, nhân với số tháng làm việc thực tế trong năm để tính thành số ngày được nghỉ hằng năm.
3. Thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ hằng năm
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động của Quốc hội, số 45/2019/QH14 thì:
- Trường hợp do thôi việc, bị mất việc làm mà chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.
4. Tiền lương cho những ngày chưa nghỉ hằng năm
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 67 Nghị định 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 01/02/2021 thì:
- Tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm theo khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm.
Tính toán cụ thể
Người lao động làm việc từ năm 2000 đến tháng 5/2024, tức là đã làm việc được 5 tháng trong năm 2024. Số ngày nghỉ hằng năm của người lao động làm việc trong điều kiện bình thường là 12 ngày.
Số ngày nghỉ hằng năm tính theo tỷ lệ tương ứng với số tháng làm việc trong năm 2024: Số ngày nghỉ hằng năm = 12 tháng / 12 ngày x 5 tháng = 5 ngày.
Tóm tắt
- Người lao động làm việc từ năm 2000 đến tháng 5/2024 sẽ có 5 ngày nghỉ hằng năm tính lương.
- Nếu người lao động chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm khi thôi việc, người sử dụng lao động phải thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ.
- Tiền lương cho những ngày chưa nghỉ hằng năm được tính dựa trên tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc.
Bạn có thể tham khảo thêm chi tiết tại các điều khoản của Bộ luật Lao động của Quốc hội, số 45/2019/QH14 và Nghị định 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ.