- 1. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ tại Điều 331 Bộ luật Hình sự
- 2. Quyền tự do dân chủ tại Điều 331 Bộ luật Hình sự được quy định thế nào?
- 3. Các yếu tố cấu thành tội phạm tại Điều 331 Bộ luật Hình sự
- 3.1. Các yếu tố cấu thành tội phạm
- 3.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tại Điều 331 Bộ luật Hình sự
1. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ tại Điều 331 Bộ luật Hình sự
Điều 331 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 quy định về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Theo đó, tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có thể bị phạt tù đến 07 năm.
Cụ thể, trường hợp công dân lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và các quyền tự do dân chủ khác xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì sẽ bị xử phạt theo quy định.
Mức phạt đối với hành vi vi phạm là bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Trường hợp phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Quyền tự do dân chủ tại Điều 331 Bộ luật Hình sự được quy định thế nào?
Hiện nay, quyền tự do dân chủ của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp 2013. Trong đó, các quyền tự do dân chủ liên quan đến tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tại Điều 331 Bộ luật Hình sự được quy định như sau:
Mọi công dân có quyền được tự do tín ngưỡng, tôn giáo, công dân có thể lựa chọn theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không một ai được phép xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.
3. Các yếu tố cấu thành tội phạm tại Điều 331 Bộ luật Hình sự
Các yếu tố cấu thành tội phạm có thể hiểu là tổng hợp những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm được quy định trong luật.
3.1. Các yếu tố cấu thành tội phạm
Các yếu tố cấu thành của tội phạm bao gồm: Khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm.
- Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, thể hiện ra bên ngoài, phản ánh trong thế giới khách quan. Thông qua biểu hiện bên ngoài này có thể đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Theo đó, mặt khách quan của tội phạm bao gồm:
Hành vi khách quan của tội phạm: Hành vi bao gồm hành vi hành động và hành vi không hành động.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Hậu quả là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: Luôn luôn tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi - hậu quả của hành vi phạm tội.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của tội phạm được phản ánh qua động cơ, mục đích của tội phạm. Các dấu hiệu để nhận biết mặt chủ quan của tội phạm gồm: Lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi bao gồm lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
Động cơ của tội phạm là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.
Mục đích phạm tội là mục tiêu mà người phạm tội đặt ra mong muốn đạt được khi thực hiện tội phạm.
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội.
Chủ thể của tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi theo quy định Bộ luật hình sự quy định đối với mỗi loại tội phạm nhất định.
3.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm tại Điều 331 Bộ luật Hình sự
Các yếu tố cấu thành tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ tại Điều 331 Bộ luật Hình sự được xác định như sau:
Khách thể của tội phạm
Khách thể ở đây được xác định là lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Các lợi ích trên đay có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất.
Mặt khách quan của tội phạm
Người người phạm tội có hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng, tôn giáo, hội họp, lập hội,... của bản thân để xâm hại hại lợi ích của Nhà nước, quyền lợi của tổ chức, cá nhân.
Hậu quả của hành vi trên là những thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về vật chất và phi vật chất cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác.
Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ thực hiện hành vi có lỗi cố ý.
Có thể thấy người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình sẽ xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
Người phạm tội thấy trước hậu quả và mong muốn hậu quả của hành vi vi phạm xảy ra hoặc người phạm tội thấy trước hậu quả, dù không mong muốn nhưng người phạm tội vẫn để mặc cho hậu quả xảy ra.
Người phạm tội có thể vì động cơ, mục đích cũng khác nhau tùy thuộc vào hành vi vi phạm cụ thể và ý chí của người phạm tội xâm phạm đến lợi ích nào. Trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân quy thì sẽ bị xử lý về các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Chủ thể của tội phạm
Bộ luật Hình sự không quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Vì vậy, bất kỳ cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi vi phạm đều sẽ bị xử phạt về hành vi vi phạm.
Trên đây là nội dung về tội lợi dụng quyền tự do dân chủ tại Điều 331 Bộ luật Hình sự.