Đánh đập gây thương tích là hành vi bạo lực khá phổ biến giữa vợ và chồng nhưng biện pháp xử lý đối với hành vi này chưa hiệu quả, chưa hợp lý vì vợ hoặc chồng là người bị đánh đập nhưng vẫn phải nộp phạt.
- Phạt tiền từ 01 - 1.5 triệu đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.
- Phạt tiền từ 1.5 - 02 triệu đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
+ Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình.
+ Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
Ngoài việc bị phạt tiền thì người có hành vi vi phạm buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu.
Lưu ý: Đây là mức phạt đối với hành vi chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vợ bị đánh nhưng vẫn phải nộp phạt? (Ảnh minh họa)
Vợ hoặc chồng bị đánh nhưng phải nộp phạt?
Việc vợ hoặc chồng là người bị đánh đập nhưng vẫn phải “nộp phạt” là quy định chưa hợp lý nhưng đang được áp dụng, cụ thể:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”
Theo quy định trên thì tất cả thu nhập là tiền lương, tiền công của vợ, chồng hoặc thu nhập có được do sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, nếu tiền nộp phạt là tài sản chung của vợ chồng thì đồng nghĩa với việc người bị đánh phải nộp ½ số tiền phạt (pháp luật không có quy định người nộp phạt phải chứng minh tiền nộp phạt là tài sản riêng).
Kết luận: Mặc dù pháp luật chỉ xử lý với người có hành vi đánh đập gây thương tích và cũng không có điều khoản nào quy định “vợ bị đánh nhưng vẫn phải nộp phạt” nhưng xét về nguồn gốc tiền nộp phạt là tài sản chung thì đồng nghĩa với việc “vừa bị đánh vừa phải nộp một nửa tiền phạt”. Mặt khác, pháp luật hiện nay chưa có hình thức xử lý khác ngoài việc phạt tiền, xin lỗi công khai.
Từ 01/7/2024, người có tài khoản định danh mức 2 đều có Căn cước điện tử. Từ thời điểm này, người dân cũng có thể xem Căn cước điện tử trên VNeID chỉ vài bước đơn giản qua điện thoại.
Không ít trường hợp bị tước Giấy phép lái xe (GPLX) trên VNeID. Một trong những vấn đề liên quan được nhiều người quan tâm là khi bị tước GPLX trên VNeID có thể dùng bản cứng thay thế được không?
Nhiều người đi làm thẻ Căn cước thay cho Căn cước công dân (CCCD) khi có nhu cầu hoặc thẻ cũ hết hạn nhưng lại muốn giữ lại thẻ CCCD làm kỷ niệm. Vậy, không nộp lại Căn cước công dân khi làm thẻ Căn cước có bị phạt?
Từ 01/7/2024, người dân đã có thể làm thẻ Căn cước mới để thay thế cho các giấy tờ tùy thân cũ như Chứng minh nhân dân (CMND) hoặc Căn cước công dân (CCCD) cũ. Vậy làm sao để được cấp thẻ Căn cước khi không có nơi thường trú tạm trú?
Từ 01/8/2024, người mua xe có thể bấm bấm biển số trên ứng dụng định danh điện tử VNeID. Vậy có phải trường hợp nào cũng có thể bấm biển số trên ứng dụng này?