CÔNG VĂN
CỦA TỔNG CỤC HẢI QUAN SỐ 685/TCHQ-KTTT NGÀY 01
THÁNG 3 NĂM 1997 VỀ VIỆC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ẤN CHỈ
Kính
gửi: - Cục Hải quan các tỉnh, thành phố,
Ngày 28-01-1997 Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư liên Bộ số 15-TTLB/TCHQ-TC về hướng dẫn in ấn, cấp phát, quản lý và sử
dụng ấn chỉ ngành Hải quan.
Để các đơn vị trong ngành triển khai thực hiện thống nhất
Thông tư liên bộ nói trên, Tổng cục Hải quan hướng dẫn cụ thể thêm một số vấn
đề như sau:
I- QUY ĐỊNH IN ẤN PHÁT HÀNH
1- Các loại ấn chỉ dùng để phục vụ cho việc quản lý thu thuế
và các loại thu liên quan đến quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt
động nghiệp vụ của ngành Hải quan (gọi chung là ấn chỉ ngành Hải quan) do Tổng
cục Hải quan (Cục KTTT XNK được uỷ nhiệm tổ chức in ấn, phát hành và quản lý sử
dụng.
Các đơn vị, cá nhân không được tự ý in hoặc sử dụng các loại
ấn chỉ không phải do Tổng cục Hải quan (Cục KTTT XNK) phát hành. Cấm không được
phô tô ấn chỉ để sử dụng.
2- Để đáp ứng đủ nhu cầu ấn chỉ cho các hoạt động của ngành,
đồng thời tránh lãng phí ngân sách Nhà nước, các Cục Hải quan địa phương phải
lập kế hoạch số lượng cần có trong năm của các loại ấn chỉ nghiệp vụ Hải quan
và ấn chỉ thuế do Bộ Tài chính phát hành gửi về Tổng cục Hải quan (Cục KTTT
XNK) trước ngày 31-9 hàng năm.
3- Giá bán các loại ấn chỉ bán thu tiền do Tổng cục Hải quan
quy định thống nhất trong toàn ngành (giá ghi trên hoá đơn kiểm phiếu xuất kho
của Tổng cục Hải quan). Giá bán ấn chỉ phải được niêm yết công khai tại nơi làm
thủ tục Hải quan.
Khi bán ấn chỉ (loại ấn chỉ bán thu tiền) phải dùng hoá đơn
kiêm phiếu xuất kho do Bộ Tài chính phát hành để cấp cho hành khách (liên 2).
Cục Hải quan địa phương có trách nhiệm tổ chức quản lý, sử
dụng mà mua hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành ở Cục thuế địa phương để cấp cho
các đơn vị trực tiếp bán ấn chỉ (Đội, Cửa khẩu). Tiền mua hoá đơn do Bộ Tài
chính phát hành, Cục Hải quan địa phương được thanh toán với Tổng cục Hải quan
(Cục KTTT) theo định kỳ báo cáo quyết toán ấn chỉ.
Chi phí quản lý và phát hành (bao gồm cả thuế, tiền mua hoá
đơn .. .) được tính trên 25% giá bán ấn chỉ và được phân chia như sau:
Tổng cục Hải quan 20%
Cục Hải quan địa phương 5%.
Tỉ lệ % chi phí và phát hành này áp dụng chung cho tất cả
các loại ấn chỉ bán thu tiền của cơ quan Hải quan từ ngày 28-1-1997.
Tổng cục Hải quan thực hiện nộp thuế ấn chỉ bán thu tiền cho
toàn ngành và thanh toán tiền mua hoá đơn với Bộ Tài chính.
II- VỀ LĨNH, CẤP PHÁT VÀ SỬ DỤNG ẤN CHỈ
Khi lĩnh ấn chỉ ở Hải quan cấp trên, cán bộ lĩnh ấn chỉ phải
có giấy giới thiệu của đơn vị ghi rõ họ tên, địa chỉ, số lượng, chủng loại, ký
hiệu ấn chỉ cần lĩnh. Khi nhận ấn chỉ phải đếm từng liên, từng số, từng quyền,
từng sê-ri tại kho, tuyệt đối không được đếm bó. Ấn
chỉ ra khỏi kho nếu thiếu thủ kho không chịu trách nhiệm.
Căn cứ vào phiếu xuất kho ấn chỉ của cơ quan Hải quan cấp
trên, kế toán ấn chỉ lập phiếu nhập kho (mẫu QH31-92) để nhập kho ấn chỉ.
Khi cấp ấn chỉ cho các đơn vị cấp dưới kế toán ấn chỉ phải
làm phiếu xuất kho (mẫu HQ32-92) và đối với ấn chỉ bán thu tiền phải vào sổ
theo dõi tiền bán ấn chỉ (mẫu 08SKT-HQ).
Sổ theo dõi tiền bán ấn chỉ phải mở sổ theo dõi đến từng đơn vị, đội,
cửa khẩu. Mỗi đơn vị, cửa khẩu dùng một trang hay một số trang để phản ánh.
Sổ phải đóng dấu giáp lai, đánh số trang, ghi tên người giữ
sổ, có chữ ký đóng dấu của thủ trưởng đơn vị. Ghi sổ bằng mực tốt, rõ ràng,
sạch sẽ để tiện cho việc tra cứu khi cần thiết. Nghiêm cấm việc dùng bút xoá
trong sổ kế toán.
II- VỀ THANH TOÁN TIỀN BÁN ẤN CHỈ
VÀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG PHÍ PHÁT HÀNH
1- Thanh toán tiền bán ấn chỉ.
- Cơ quan Hải quan các cấp khi bán ấn chỉ loại có tiền cho
các đơn vị, cá nhân sử dụng phải bán đúng giá quy định. Giá thanh toán tiền bán
ấn chỉ thu tiền của cơ quan Hải quan các cấp với cơ quan Hải quan cấp trên như
sau:
+ Cục Hải quan địa phương thanh toán với Tổng cục Hải quan
là giá bán (ghi trên phhiếu xuất kho của Tổng cục) trừ đi 5% phí phát hành để
lại cho Cục và Đội, Cửa khẩu (đơn vị trực tiếp bán ấn chỉ) được hưởng.
+ Đơn vị trực tiếp bán ấn chỉ (Đội, Cửa khẩu) thanh toán với
Cục Hải quan là giá bán trừ đi phí phát hành đơn vị cấp dưới được hưởng (tỷ lệ
phí phát hành này do Cục trưởng Cục Hải quan địa phương quyết định và chỉ được
trích trong 5% phí phát hành của Cục Hải quan).
- Để đảm bảo có nguồn kinh phí phục vụ cho việc in ấn chỉ,
cơ quan Hải quan các cấp phải có trách nhiệm thu tiền bán ấn chỉ và thanh toán
kịp thời với cơ quan Hải quan cấp trên theo quy định như sau:
+ Hàng tháng cơ quan Hải quan các cấp phải thanh toán số
tiền bán ấn chỉ đã thu được với cơ quan Hải quan cấp trên bằng tiền mặt, séc
cầm tay hoặc bằng chuyển khoản trong vòng 10 ngày đầu tháng tiếp sau.
+ Hàng quý cơ quan Hải quan các cấp phải quyết toán với cơ
quan Hải quan cấp trên chi tiết từng loại ấn chỉ bán thu tiền trong vòng 20
ngày đầu tháng thứ nhất quý sau.Khi về quyết toán các Cục Hải quan địa phương
phải có báo cáo quyết toán và các chứng từ chứng minh (bản phô tô) đã chuyển
tiền về tài khoản của Tổng cục Hải quan.
Các tỉnh, thành phố phía Bắc (từ Đà Nẵng trở ra) lĩnh, thanh
toán các loại ấn chỉ bán thu tiền với Tổng cục Hải quan tại Hà Nội. Nếu thanh
toán bằng chuyển khoản thì chuyển tài khoản ấn chỉ của Tổng cục Hải quan.
Tài khoản: 945.01.152.
Chi cục Kho bạc Nhà nước Hà Nội.
Các tỉnh, thành phố phía Nam (từ Bình Định trở vào) lĩnh,
thanh toán các loại ấn chỉ bán thu tiền với bộ phận ấn chỉ đặt tại Xí nghiệp in
Hải quan.
2- Quản lý sử dụng phí phát hành.
Tiền phí phát hành được sử dụng như sau:
- Cấp Tổng cục (20%)
+ Chi các khoản thuộc nội dung tại điểm 6, phần B, mục I của
Thông tư liên Bộ số 15 TCHQ-TC ngày 28-1-1997.
+ Chi tiền mua hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành để cấp cho
khách hàng khi mua ấn chỉ bán thu tiền của Cục Hải quan địa phương.
- Cấp Cục (5%):
+ Chi phí kho tàng, phương tiện cất giữ, bảo quản ấn chỉ tại
đơn vị.
+ Chi phí bốc xếp, vận chuyển ấn chỉ từ nơi nhận ấn chỉ đến
kho và từ kho đưa đi tiêu thụ.
+ Chi phí bao bì đóng gói ấn chỉ của đơn vị mình.
+ Chi phí tuyên truyền, quản lý sử dụng.
+ Khen thưởng thành tích quản lý, phát hành tốt của đơn vị.
Phần còn lại tuỳ đặc điểm của từng địa phương mà Cục trưởng
Hải quan đơn vị quyết định tỉ lệ phân bổ mức bồi dưỡng cho người trực tiếp làm
công tác quản lý ấn chỉ và quỹ phúc lợi cho cán bộ công nhân viên trong đơn vị.
Phí phát hành (5%) đơn vị chỉ được chi trong các nội dung
nêu trên và chỉ được chi với ấn chỉ bán thu tiền. Khi chi phải có chứng từ hợp
lệ, chứng từ do Nhà nước quy định, những khoản chi trên 50.000 đồng phải có hoá
đơn của Bộ Tài chính, phải có địa chỉ của đơn vị bán hàng. Với ấn chỉ cấp phát
nếu phải chi những nội dung trên, đơn vị lập chứng từ riêng để chi trong nguồn
hạn mức kinh phí của đơn vị và quyết toán với ngân sách.
Cơ quan Hải quan các cấp phải mở sổ chi tiết phản ánh số
thu, chi về phí phát hành.
Hàng năm các Cục Hải quan địa phương tập hợp chứng từ mua
hoá đơn của Bộ Tài chính phát hành có xác nhận của thủ trưởng đơn vị và kế toán
trưởng gửi về Tổng cục Hải quan (Cục KTTT XNK) để Tổng cục Hải quan thanh toán
tiền mua hoá đơn cho đơn vị, chứng từ gửi cùng với báo cáo quyết toán phần phí
phát hành vào ngày 10 đầu quý I năm sau.
Để tổ chức quản lý chặt chẽ đối với các loại biên lai ấn chỉ
nói chung và ấn chỉ bán thu tiền nói riêng, các Cục Hải quan cần bố trí cán bộ
có trình độ và năng lực làm công tác kế toán ấn chỉ.
Trong quá trình thực hiện, nếu khó khăn, vướng mắc các đơn
vị kịp thời phản ánh về Tổng cục (Cục KTTT XNK) có chỉ đạo trực tiếp.