Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Số 18.2010 (476) ngày 11/05/2010
Quy định mới về hợp đồng xây dựng (SMS: 48/2010/ND-CP) - Ngày 07/5/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 48/2010/NĐ-CP. Nghị định này quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng thuộc các dự án đầu tư xây dựng có sử dụng 30% vốn nhà nước trở lên. Đối với hợp đồng xây dựng thuộc các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có những quy định khác với các quy định tại Nghị định này thì thực hiện theo các quy định của điều ước quốc tế đó.
Theo Nghị định này, hợp đồng xây dựng được ký kết sau khi bên giao thầu hoàn thành việc lựa chọn nhà thầu theo quy định và các bên tham gia đã kết thúc quá trình đàm phán hợp đồng trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Giá ký kết hợp đồng không vượt giá trúng thầu (đối với trường hợp đấu thầu), không vượt dự toán gói thầu được duyệt (đối với trường hợp chỉ định thầu). Trường hợp bổ sung khối lượng công việc hoặc số lượng thiết bị nằm ngoài khối lượng hồ sơ mời thầu dẫn đến giá ký kết hợp đồng vượt giá trúng thầu nhưng không làm thay đổi mục tiêu đầu tư hoặc không vượt tổng mức đầu tư được phê duyệt thì chủ đầu tư được quyền quyết định; nếu làm thay đổi mục tiêu đầu tư hoặc vượt tổng mức đầu tư đã được phê duyệt thì phải báo cáo người có thẩm quyền quyết định đầu tư quyết định. Nếu trong một dự án, chủ đầu tư ký hợp đồng với nhiều nhà thầu để thực hiện các gói thầu khác nhau thì nội dung của các hợp đồng này phải thống nhất, đồng bộ về tiến độ, chất lượng trong quá trình thực hiện nội dung của từng hợp đồng, bảo đảm hiệu quả đầu tư chung của dự án. Trường hợp bên nhận thầu là liên danh các nhà thầu thì các thành viên trong liên danh phải có thỏa thuận liên danh, trong hợp đồng phải có chữ ký của tất cả các thành viên tham gia liên danh. Trường hợp hợp đồng xây dựng có sự tham gia của phía nước ngoài thì ngôn ngữ sử dụng là tiếng Việt và tiếng Anh; khi hợp đồng xây dựng được ký kết bằng hai ngôn ngữ thì các bên phải thỏa thuận về ngôn ngữ sử dụng trong quá trình giao dịch hợp đồng và thứ tự ưu tiên sử dụng ngôn ngữ để giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng (nếu có).
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2010. Kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì các quy định tại Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về hợp đồng trong hoạt động xây dựng hết hiệu lực thi hành.
Cũng theo Nghị quyết này, Nhà nước chỉ ứng vốn năm 2011 cho các công trình thiết yếu, hoàn thành trong năm 2010; chú trọng thu hút và giải ngân vốn FDI, ODA, đẩy mạnh đầu tư gián tiếp. Tiếp tục tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển; đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí; chú trọng giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng kéo dài. Tập trung thực hiện đúng tiến độ cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính trong giai đoạn 3 của Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực thuế, đất đai, hải quan, xây dựng cơ bản, cấp phép đầu tư…, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân.
Theo Nghị định này, người sử dụng lao động không công bố danh sách người lao động bị thôi việc theo quy định của pháp luật hoặc không trao đổi với ban chấp hành công đoàn cơ sở khi cho người lao động thôi việc thì bị phạt tiền từ 300 ngàn đồng đến 03 triệu đồng; doanh nghiệp không lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 10 triệu đồng; phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500 ngàn đồng đến 03 triệu đồng đối với người sử dụng lao động không giao bản hợp đồng lao động cho người lao động sau khi ký. Người lao động có một trong những hành vi không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích các phương tiện bảo hộ lao động mà người lao động đã trang bị thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200 ngàn đồng đến 01 triệu đồng.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/6/2010 và thay thế Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010.
Những đối tượng nói trên khi hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) thì được hưởng trợ cấp hàng tháng; nếu hết tuổi lao động trước ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành thì được hưởng trợ cấp kể từ ngày 01/5/2010. Mức trợ cấp hàng tháng bằng mức trợ cấp đang hưởng của đối tượng quy định tại Quyết định số 91/2000/QĐ-TTg ngày 04/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ và được điều chỉnh theo quy định của Chính phủ. Người hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định này được hưởng bảo hiểm y tế; khi chết, người lo mai táng được hưởng tiền mai táng phí theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội hiện hành. Nguồn kinh phí thực hiện các khoản trợ cấp nêu trên do ngân sách Trung ương bảo đảm; riêng năm 2010 được bố trí trong nguồn kinh phí thực hiện cải cách chính sách tiền lương.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Các quy định tại Quyết định này được thực hiện từ ngày 01/5/2010.
Tại Nghị quyết này, Chính phủ cũng giao UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, tổ chức thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất mới cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê hoặc dành quỹ đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa và vườn ươm doanh nghiệp. Trong năm 2010, Bộ Tài chính có trách nhiệm nghiên cứu trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 151/2006/NĐ-CP và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, trong đó ưu tiên đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu, lĩnh vực gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Tổng kinh phí thực hiện Chương trình là 190 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước cấp là 170 tỷ đồng, còn lại là kinh phí đóng góp của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tham gia Chương trình. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chung về tổ chức thực hiện Chương trình, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo Chương trình.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký
BỘ TÀI CHÍNH | |
Sửa đổi quy định về xóa nợ thuế cho DNNN (SMS: 934/QD-BTC) - Bộ Tài chính có Quyết định số 934/QĐ-BTC ngày 29/4/2010 đính chính Thông tư số 34/2010/TT-BTC ngày 12/3/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện sắp xếp chuyển đổi trước ngày 01/7/2007. Cụ thể, tại Điều 4 quy định về “Xóa nợ thuế đối với DNNN thực hiện cổ phần hóa” đã in: “Doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa và đăng ký kinh doanh trước ngày 01/7/2007 còn tồn tại các khoản nợ thuế nếu các khoản nợ thuế này đã được tính giảm trừ trong tổng số nợ. Số thuế được xóa tối đa không vượt quá số lỗ tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp hoặc thời điểm chính thức chuyển đổi…”, nay sửa lại thành “Doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa và đăng ký kinh doanh trước ngày 01/7/2007 còn tồn tại các khoản nợ thuế nếu các khoản nợ thuế này đã được tính giảm trừ trong tổng số nợ và chưa tính giảm trừ vào vốn nhà nước khi xác định giá trị doanh nghiệp. Số thuế được xóa tối đa không vượt quá số lỗ tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp hoặc thời điểm chính thức chuyển đổi…”. Tại Điều 7 về “Xóa nợ thuế đối với DNNN sáp nhập vào DNNN khác” đã in: “Doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh bị lỗ, có nợ đọng thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước có quyết định sáp nhập vào DNNN khác trước 01/7/2007, đến 31/12/2008 số nợ thuế này chưa được xử lý thì được xem xét xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước tối đa bằng số lỗ của doanh nghiệp sáp nhập tại thời điểm có quyết định sáp nhập.”, nay sửa lại thành: “Doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh bị lỗ, có nợ đọng thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước có quyết định sáp nhập vào DNNN khác trước 01/7/2007, đến 31/12/2008 số nợ thuế này chưa được xử lý thì được xem xét xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp nhận sáp nhập phải là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 3, Điều 11 Nghị định 69/2002/NĐ-CP ngày 12/7/2002 của Chính phủ được xóa nợ tối đa bằng số lỗ của doanh nghiệp sáp nhập tại thời điểm có quyết định sáp nhập.” Quyết định này có hiệu lực thi hành cùng thời điểm có hiệu lực của Thông tư số 34/2010/TT-BTC ngày 12/3/2010 của Bộ Tài chính. |
LIÊN BỘ | |
Chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp (SMS: 09/2010/TTLT-BTP-BTC-BNV) - Liên Bộ Tư pháp, Tài chính, Nội vụ vừa ban hành Thông tư số 09/2010/TTLT-BTP-BTC-BNV ngày 04/5/2010 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg ngày 07/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp. Theo Thông tư này, kinh phí chi trả bồi dưỡng giám định tư pháp đối với các vụ án hình sự do ngân sách nhà nước bảo đảm và được bố trí trong dự toán kinh phí hàng năm của cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; kinh phí chi trả bồi dưỡng giám định tư pháp đối với các vụ việc dân sự, vụ án hành chính được tính trong chi phí giám định do đương sự chịu theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật tố tụng hành chính. Cơ quan trưng cầu giám định có trách nhiệm tạm ứng tiền bồi dưỡng giám định cho tổ chức, cá nhân tiếp nhận trưng cầu giám định khi trưng cầu giám định và phải thanh toán tiền bồi dưỡng giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định. Trong trường hợp khám nghiệm tử thi, mổ tử thi, khai quật tử thi thì sau khi thanh toán việc chi trả chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tư pháp, cơ quan trưng cầu giám định có trách nhiệm chi trả bồi dưỡng giám định cho người tiến hành tố tụng theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg nêu trên. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký. Đối với các việc giám định tư pháp được trưng cầu và tiếp nhận thực hiện kể từ ngày 01/7/2009 đến ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì chế độ bồi dưỡng giám định được tính theo mức bồi dưỡng quy định tại Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg. Trong trường hợp việc giám định đã được cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán tiền bồi dưỡng giám định tư pháp theo mức bồi dưỡng quy định tại Quyết định số 160/TTg ngày 15/3/1996 và Quyết định số 57/1998/QĐ-TTg ngày 05/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ thì cơ quan trưng cầu giám định đó có trách nhiệm chi trả tiếp phần tiền bồi dưỡng giám định chênh lệch so với mức bồi dưỡng quy định tại Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg. |