Thông báo 90/TB-VPCP năm 2018 Kết luận của Thủ tướng Chính phủ về sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Thông báo 90/TB-VPCP
Cơ quan ban hành: | Văn phòng Chính phủ |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 90/TB-VPCP |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Thông báo |
Người ký: | Nguyễn Cao Lục |
Ngày ban hành: | 07/03/2018 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: | Công nghiệp |
tải Thông báo 90/TB-VPCP
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ Số: 90/TB-VPCP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 07 tháng 03 năm 2018 |
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHÚC TẠI CUỘC HỌP VỀ SƠ KẾT 05
NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 13-NQ/TW CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XI
Ngày 28 tháng 02 năm 2018, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì cuộc họp về sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI. Tham dự cuộc họp có các Phó Thủ tướng: Vương Đình Huệ, Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam, Trịnh Đình Dũng, Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ và lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Tài chính, Công Thương, Giáo dục và Đào tạo, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Khoa học và Công nghệ, Thông tin và Truyền thông, Y tế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo đánh giá sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” (Nghị quyết số 13-NQ/TW) và dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, ý kiến phát biểu của các đại biểu dự họp và ý kiến của các Phó Thủ tướng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kết luận như sau:
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2012 về “Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” (sau đây gọi là Nghị quyết số 13-NQ/TW). Để triển khai thực hiện, ngày 8 tháng 6 năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 16/NQ-CP về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW. Các Nghị quyết trên đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền quán triệt, thực hiện nghiêm túc và đã nhận thức rõ về vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của hạ tầng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Từng bước xây dựng và hoàn thiện các chính sách huy động, sử dụng nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo cơ chế thị trường. Sau 5 năm triển khai thực hiện đến nay đã đạt được những kết quả tích cực.
Các nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển kết cấu hạ tầng đã được khẩn trương thực hiện. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và hoàn thiện, nhiều cơ chế chính sách cụ thể được rà soát điều chỉnh theo chương trình hành động của Chính phủ đề ra. Khung pháp lý thống nhất, đồng bộ đã và đang được hình thành và hoàn thiện, phù hợp với thông lệ quốc tế với việc xây dựng, sửa đổi và ban hành các Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Đất đai,.. và các văn bản dưới luật, tạo môi trường thuận lợi để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Nhiều hình thức đầu tư từ xã hội được thực hiện, tăng thêm nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng.
Các công trình kết cấu hạ tầng được đầu tư đã từng bước hiện đại và bảo đảm kết nối đồng bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của các vùng lãnh thổ cũng như trên phạm vi cả nước. Một số công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, đảm bảo kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế; các tuyến đường cao tốc, cảng hàng không, cảng biển... được tập trung đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thi công; hạ tầng giao thông ở các vùng kinh tế trọng điểm được ưu tiên bố trí vốn đầu tư để sớm hoàn thành, đưa vào sử dụng. Hạ tầng năng lượng được đầu tư, tăng thêm năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hạ tầng thủy lợi được đầu tư, nâng cấp và khai thác hiệu quả hơn, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hạ tầng đô thị có bước được cải thiện, nhất là ở các thành phố lớn. Hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế được các địa phương tập trung đầu tư, đặc biệt là hạ tầng xã hội thiết yếu, góp phần giải quyết tình trạng thiếu nhà ở cho lao động các khu công nghiệp. Hạ tầng thông tin truyền thông phát triển mạnh, đảm bảo hiện đại, rộng khắp, kết nối với quốc tế và từng bước hình thành siêu xa lộ thông tin. Hạ tầng thương mại phát triển nhanh... Hạ tầng giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch... được quan tâm đầu tư.
Các công trình kết cấu hạ tầng để xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, đã thực sự phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn được đổi mới, đời sống nhân dân được nâng lên, góp phần xây dựng công trình nông thôn mới hoàn thành một bước rất cơ bản.
Mặc dù đạt được nhiều mặt tích cực, nhưng trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết còn có một số khó khăn, hạn chế cần phải tiếp tục được nghiên cứu điều chỉnh, khắc phục. Một số văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chậm. Cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa đầu tư hạ tầng chưa chú ý đến đặc thù của các công trình và của địa phương. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều mặt hạn chế chưa đồng bộ, hiệu quả kết nối và chất lượng chưa cao. Hạ tầng đô thị chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, tình trạng ùn tắc, tai nạn giao thông còn diễn ra phức tạp. Cơ sở hạ tầng phục vụ ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn chậm. Phân cấp đầu tư chưa phù hợp, thiếu sự quản lý tập trung thống nhất; công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương chưa cao, đặc biệt là trong quản lý thực hiện quy hoạch, huy động vốn, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình đầu tư. Kinh phí cho công tác duy tu, sửa chữa công trình còn hạn chế...
Nghị quyết số 13-NQ/TW đã ban hành được 05 năm, cần thực hiện sơ kết để đánh giá những mặt đạt được, những mặt chưa đạt được và nguyên nhân, từ đó đề ra các giải pháp sát thực, sáng tạo hơn, tháo gỡ các rào cản để đạt được các mục tiêu về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ trong bối cảnh, tình hình mới.
Hoan nghênh Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thực hiện tốt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ trong việc hoàn thiện báo cáo sơ kết 05 năm và xây dựng Chỉ thị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW. Tuy nhiên, đây là chủ trương lớn của Trung ương và Bộ Chính trị, cần được đánh giá sâu và toàn diện hơn, đề xuất các giải pháp cụ thể hơn, bổ sung các cơ chế, thể chế mới để huy động nguồn lực của toàn xã hội cho đầu tư phát triển đất nước, với mục tiêu cuối cùng là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của nhân dân. Đồng thời, cần báo cáo và đề nghị Bộ Chính trị ban hành kết luận mới về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục hoàn thiện Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và dự thảo Báo cáo của Ban Cán sự đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị về việc sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI, trong đó lưu ý một số vấn đề sau:
- Đánh giá đúng mức các thành quả đã đạt được; mạnh dạn đề cập các tồn tại, khuyết điểm, hạn chế (như: không đồng bộ, chất lượng còn thấp, tiến độ còn chậm, tình trạng ùn tắc, quá tải, thất thoát lãng phí...);
- Đề xuất quan điểm mới trong tìm kiếm nguồn lực cho đầu tư, mở rộng không gian phát triển (ví dụ nguồn vốn ODA; trái phiếu Chính phủ; trái phiếu quốc tế; trái phiếu công trình; nguồn lực từ đất đai; thu giá, phí; vấn đề bảo lãnh doanh thu, bảo lãnh tỷ giá...), bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, Nhà đầu tư và người dân;
- Kiến nghị các nội dung cụ thể để tháo gỡ các rào cản trong các quy định của pháp luật chưa được sửa đổi; đề xuất danh mục các dự án ưu tiên đầu tư, các cơ chế, chính sách chung và chính sách riêng đối với các dự án cụ thể (như các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, các công trình hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, các công trình hạ tầng điện, viễn thông, thương mại...).
Trên cơ sở hoàn thiện Báo cáo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các Bộ, ngành liên quan, một số địa phương tại các khu vực trọng điểm và các Ban của Đảng, trình Thủ tướng Chính phủ vào cuối tháng 3 năm 2018. Giao Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ và Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng xem xét, chỉ đạo hoàn thiện Báo cáo để kịp báo cáo Ban Cán sự đảng Chính phủ vào tháng 04 năm 2018. Văn phòng Chính phủ bố trí họp Ban Cán sự đảng Chính phủ trước khi báo cáo Bộ Chính trị.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận: | KT. BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM |
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây