Báo cáo 14/BC-BTP của Bộ Tư pháp về việc tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ về công tác quốc phòng và sơ kết thực hiện Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng cơ sở vững mạnh
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Báo cáo 14/BC-BTP
Cơ quan ban hành: | Bộ Tư pháp |
Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 14/BC-BTP |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Báo cáo |
Người ký: | Đinh Trung Tụng |
Ngày ban hành: | 29/01/2010 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: | An ninh quốc gia |
tải Báo cáo 14/BC-BTP
BỘ TƯ PHÁP ------------ Số: 14/BC-BTP
| CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ------------------------ Hà Nội, ngày 29 tháng 01 năm 2010 |
BÁO CÁO
Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ - CP của
Chính phủ về công tác quốc phòng và sơ kết thực hiện
Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về xây dựng cơ sở vững mạnh
Thực hiện Chỉ thị số 02/CT - BQP ngày 30 tháng 01 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Hướng dẫn số 21/HD-TM ngày 05 tháng 01 năm 2009 và Công văn số 197/TM - G7 ngày 09 tháng 02 năm 2009 của Bộ Tổng Tham mưu về việc tổng kết 5 năm thực hiện công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương gắn với sơ kết việc xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Bộ Tư pháp báo cáo việc tổ chức thực hiện công tác quốc phòng tại cơ quan Bộ từ năm 2004 đến nay như sau:
Phần 1
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH
119/2004/NĐ-CP VÀ CHỈ THỊ 36/2005/CT-TTg
I.ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH
Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
- Về tổ chức chính quyền: Bộ Tư pháp gồm 27 đầu mối cấp tổng cục, cục, vụ, viện và trường (20 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, 07 đơn vị sự nghiệp) với trên 1000 cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng. Trong đó, trên 50 % là nữ, trên 70 % cán bộ ở độ tuổi dưới 40, nhiều cán bộ, công chức đã được rèn luyện qua môi trường quân đội;
- Về tổ chức Đảng: Đảng bộ Bộ Tư pháp có 485 đảng viên, thành lập 24 chi bộ trực thuộc và 02 Đảng bộ cơ sở (chưa tính Đảng bộ Đại học Luật thuộc Thành ủy Hà Nội);
- Về tổ chức đoàn thể: Bộ Tư pháp có hệ thống tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Ban Vì sự tiến bộ Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh từ cơ quan Bộ đến các đơn vị trực thuộc.
1. Về thuận lợi:
- Công tác quốc phòng, quân sự địa phương của Bộ Tư pháp luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Ban Cán sự, Lãnh đạo Bộ và sự chỉ đạo, hướng dẫn của các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Thủ đô và Ban chỉ huy quân sự quận Ba Đình;
- Ban Chỉ huy quân sự Bộ Tư pháp sớm được thành lập, các cán bộ trong
Ban Chỉ huy đều là sĩ quan quân đội hoặc đã được rèn luyện trong môi trường quân đội, nhiệt tình, có trách nhiệm trong công việc, có kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện công tác quốc phòng, quân sự địa phương;
- Được cung cấp hệ thống các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác quốc phòng, quân sự địa phương tương đối đầy đủ.
2. Về khó khăn:
- Nhận thức về nhiệm vụ công tác quốc phòng của một số cán bộ, công chức, viên chức chưa thật đầy đủ; ý thức trách nhiệm của từng cá nhân đối với công tác quốc phòng chưa cao, coi công tác quốc phòng, quân sự địa phương là nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ của Ban Chỉ huy quân sự;
- Đội ngũ cán bộ làm công tác quốc phòng, quân sự địa phương đều là cán bộ kiêm nhiệm, chưa có cán bộ quân sự chuyên trách nên trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương có lúc còn bị động, lúng túng;
- Trụ sở làm việc của cơ quan Bộ phân tán ở nhiều nơi; khối lượng công việc chuyên môn ngày càng lớn, thời gian vật chất của cán bộ, công chức còn eo hẹp; đa số cán bộ thuộc đối tượng 2 đang trong thời gian hoàn thiện các tiêu chuẩn chức danh đang đảm nhiệm, đang theo học các lớp cao cấp lý luận chính trị - hành chính hoặc các lớp quản lý hành chính nhà nước; điều kiện đảm bảo cho công tác quốc phòng, quân sự của Bộ còn hạn chế.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG
1. Về lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng
Thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ về công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương, Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục chỉ đạo xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, trong đó có nhiệm vụ xây dựng, phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan đến chính sách quốc phòng, an ninh;
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, từ năm 2004 tới nay, Ban Cán sự, Đảng ủy, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã thường xuyên quan tâm chỉ đạo các đơn vị chức năng quán triệt đường lối quốc phòng, an ninh của Đảng vào công tác xây dựng, phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Quán triệt tinh thần trên, các đơn vị chức năng của Bộ Tư pháp tích cực tham gia soạn thảo, tổ chức góp ý, thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh như: Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Quốc phòng, Luật Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng; các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về chế độ, chính sách đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp như: Tiêu chuẩn vật chất hậu cần; chế độ chính sách phụ cấp đặc thù cho Nhà giáo, Ngành y trong quân đội và lực lượng tàu ngầm, không quân và hải quân; chính sách bảo đảm nhà ở cho sĩ quan, v.v...
Trong hướng dẫn hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm cho Tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, đoàn thể, cơ quan Tư pháp địa phương, Bộ Tư pháp đều đưa nội dung tuyên truyền pháp luật về Luật Biên giới quốc gia, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật An ninh quốc gia, Pháp lệnh Bảo vệ các công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia; Báo Pháp luật Việt Nam đã có 02 chuyên đề về công tác quốc phòng, an ninh, có nhiều bài viết để bạn đọc hiểu tầm quan trọng của công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, đồng thời, chỉ đạo cơ quan Tư pháp các địa phương có đường biên giới phối hợp chặt chẽ với lực lượng bộ đội biên phòng tuyên truyền về Luật Biên giới quốc gia và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, Bộ Tư pháp đã thực hiện biên soạn các tài liệu tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật quy định bảo đảm quốc phòng, an ninh như:
+ Biên soạn và đưa lên Trang thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật các Đặc san tuyên truyền pháp luật của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ như: Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam; Pháp lệnh về cựu chiến binh Việt Nam; số Chuyên đề về công nghiệp quốc phòng; chuyên đề về Cựu chiến binh Việt Nam.
+ Biên soạn và đưa lên Trang thông tin phổ biến, giáo dục pháp luật các Đề cương giới thiệu các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực an ninh quốc gia; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam; Pháp lệnh Công an xã.
+ Biên soạn các sách hỏi & đáp pháp luật trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng như: Sổ tay phổ biến pháp luật dành cho đồng bào dân tộc thiểu số (tập 4), trong đó có một chương về Luật Biên giới quốc gia, Luật An ninh quốc gia và văn bản hướng dẫn thi hành; Sổ tay phổ biến pháp luật dành cho nông dân (tập 6) có nội dung về chế độ, chính sách với một số đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng chưa được hưởng chính sách của Nhà nước.v.v...
Ngoài những việc trên, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện một số hoạt động như:
+ Tổ chức buổi tuyên truyền pháp luật về phòng, chống ma túy cho cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 242, Quân khu 3 tại Quảng Ninh; tổ chức cuộc thi tìm hiểu Luật Giao thông đường bộ do Bộ Quốc phòng phát động trong toàn quân;
+ Tham gia biên soạn cuốn sách nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho báo cáo viên pháp luật của quân đội do Bộ Quốc phòng chủ trì biên soạn;
+ Tham gia Đoàn kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Bộ Quốc phòng tại Học viện Hải quân, Vùng 4/Quân chủng Hải quân.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các đơn vị phổ biến, quán triệt các văn bản liên quan công tác quốc phòng, an ninh đến cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan Bộ; đồng thời, triển khai thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và cơ quan quân sự địa phương về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh như: Chỉ thị số 16/CT-TW ngày 05/10/2002 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng Dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới; Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng - an ninh trong tình hình mới; phổ biến Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Dự bị động viên, Nghị định số 116/2007/NĐ - CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về giáo dục quốc phòng - an ninh và các văn bản hướng dẫn xây dựng, triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng hàng năm của Bộ Quốc phòng.
Sự quan tâm còn thể hiện, Đảng ủy đã cử đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan đã trải qua môi trường huấn luyện, chiến đấu trong quân đội trực tiếp làm Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự để thường xuyên theo dõi, chỉ đạo công tác quốc phòng, an ninh tại cơ quan Bộ.
Đối với lực lượng tự vệ cơ quan luôn được Lãnh đạo Bộ và Thủ trưởng các đơn vị quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi về thời gian, kinh phí và sắp xếp công việc để các chiến sĩ tự vệ tham gia huấn luyện, hội thao quân sự, tập luyện phương án đảm bảo trật tự, an toàn cơ quan; học tập chính trị theo kế hoạch của Ban chỉ huy quân sự quận Ba Đình và Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Đảng ủy, Lãnh đạo Bộ Tư pháp luôn chỉ đạo các đơn vị chấp hành nghiêm lệnh gọi thanh niên trong độ tuổi khám tuyển nghĩa vụ quân sự hàng năm, không có thanh niên nào có biểu hiện trốn tránh. 100% thanh niên trong độ tuổi đã được đăng ký sỹ quan, quân nhân dự bị hạng 1, 2 và nữ chuyên môn kỹ thuật. Sĩ quan, quân nhân dự bị luôn chấp hành nghiêm lệnh điểm danh tập trung của BCH quân sự quận Ba Đình. Những đồng chí hết tuổi dự bị động viên đã được BCH quân sự Bộ Tư pháp đề nghị được giải ngạch theo quy định.
Ngoài ra, Bộ Tư pháp luôn chấp hành lệnh điều động các phương tiện vận tải phục vụ kế hoạch huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu của Ban chỉ huy quân sự quận Ba Đình.
2. Thực hiện công tác giáo dục quốc phòng - an ninh
Triển khai thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng – an ninh trong tình hình mới và Quy định số 07-QĐ/BTCTWW ngày 16/04/2008 của Ban Tổ chức Trung ương về tiêu chuẩn kiến thức quốc phòng - an ninh đối với cán bộ, đảng viên; Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về giáo dục quốc phòng - an ninh và hướng dẫn của Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh TW về bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ thuộc đối tượng 2, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Ban Chỉ huy quân sự phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ và Thủ trưởng các đơn vị nắm chắc số lượng đối tượng cần bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh theo quy định; thực hiện tốt việc cử cán bộ đối tượng 1 và đối tượng 2 tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh do Bộ Quốc phòng tổ chức; yêu cầu cán bộ chủ động sắp xếp công việc, đăng ký tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh theo chỉ tiêu đã được thông báo. Trong 05 năm qua đã có 4/5 cán bộ lãnh đạo Bộ tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh; 19/60 cán bộ thuộc đối tượng 2 tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh do Bộ Quốc phòng tổ chức tại các Học viện và các Trường quân sự trực thuộc các Quân khu.
3. Xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường QP-AN
Thực hiện chủ trương trên, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Ban Chỉ huy quân sự xây dựng Kế hoạch động viên nguồn lực sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của cơ quan quân sự cấp trên trong mọi tình huống.
Bên cạnh việc xây dựng Kế hoạch công tác quốc phòng hàng năm, Bộ Tư pháp đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống khủng bố trong tình hình mới và chỉ đạo Ban Chỉ huy quân sự điều chỉnh các phương án, kế hoạch cơ bản liên quan đến công tác quốc phòng - an ninh như: Kế hoạch tác chiến bảo vệ cơ quan; kế hoạch phòng chống bão lụt; kế hoạch phòng chống cháy, nổ và kế hoạch huấn luyện tự vệ, dự bị động viên theo yêu cầu của cơ quan quân sự địa phương. Trên cơ sở những kế hoạch được xây dựng hàng năm, Ban Chỉ huy quân sự đã triển khai thực hiện một cách bài bản.
Công tác đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên và thực hiện lệnh điều động về người, phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác quốc phòng, quân sự địa phương tại cơ quan được thực hiện tương đối nghiêm túc.
4. Chỉ đạo kiện toàn Ban Chỉ huy quân sự và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng hàng năm
Ban Chỉ huy quân sự Bộ Tư pháp gồm 03 đồng chí do đồng chí Phó Bí thư Đảng uỷ cơ quan làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy Văn phòng làm Chính trị viên, đồng chí Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự làm Phó Chỉ huy trưởng phụ trách quân sự. Các đồng chí trong Ban Chỉ huy quân sự đều là sĩ quan, hạ sĩ quan quân đội chuyển ngành có kinh nghiệm trong chiến đấu, chỉ đạo, tổ chức huấn luyện quân sự, giáo dục quốc phòng và hàng năm đã tham gia tập huấn về công tác quốc phòng - quân sự địa phương nên việc triển khai công tác quốc phòng tại Bộ Tư pháp có nhiều thuận lợi;
- Trung đội tự vệ Bộ Tư pháp được thành lập từ năm 2005 gồm 28 đồng chí được biên chế thành 3 tiểu đội. Cán bộ trung đội, tiểu đội đều là sĩ quan, hạ sĩ quan đã được rèn luyện trong môi trường huấn luyện, chiến đấu của quân đội nên ít nhiều có kinh nghiệm trong chỉ huy và tổ chức huấn luyện quân sự;
- Lực lượng tham gia đơn vị tự vệ là những cán bộ, công chức trẻ, khoẻ đã được trang bị các kiến thức quốc phòng trong các trường đại học, trung học chuyên nghịêp và được huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị theo Chương trình của Cục Dân quân tự vệ. Ngoài lực lượng tự vệ nói trên, hàng năm các cán bộ, công chức trong độ tuổi được luân phiên tham gia huấn luyện quân sự để khi có tình huống chiến tranh hoặc bạo động vũ trang thì tham gia chiến đấu được ngay;
- Ban Chỉ huy quân sự đã phổ biến, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết và các Kế hoạch công tác quốc phòng đến cán bộ, công chức trong cơ quan. Đối với các chiến sĩ tự vệ thường xuyên được quán triệt tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi có lệnh điều động của cơ quan quân sự.
- Hàng năm, sau khi nhận được Kế hoạch của Ban Chỉ huy quân sự quận Ba Đình, Ban Chỉ huy quân sự Bộ Tư pháp đã tích cực triển khai nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương. Ngay từ đầu năm, Ban Chỉ huy đã xây dựng Kế hoạch huấn luyện, phân công cụ thể để mỗi cán bộ chỉ huy chủ động tổ chức thực hiện nhiệm vụ của mình. Mặc dù bận nhiều công việc quản lý và chuyên môn, ít có thời gian tham gia đầy đủ các hoạt động của công tác quốc phòng nhưng các đồng chí trong Ban Chỉ huy quân sự đã sắp xếp công việc để có thời gian tham gia công tác huấn luyện, hội thao quân sự theo Kế hoạch của Ban Chỉ huy quân sự quận Ba Đình.
5. Thực hiện huấn luyện và hội thao quân sự
Bộ Tư pháp luôn tạo điều kiện để Ban Chỉ huy quân sự triển khai thực hiện các nhiệm vụ huấn luyện như: Điều động chiến sĩ tự vệ ở các đơn vị, dự trù kinh phí, phương tiện phục vụ cho công tác huấn luyện và hội thao quân sự đạt kết quả tốt. Để hội thao quân sự đạt kết quả, Ban Chỉ huy quân sự đã tổ chức gặp mặt cán bộ, chiến sĩ tự vệ để quán triệt, động viên anh, chị em tham gia với tinh thần trách nhiệm cao nhất, cố gắng đạt kết quả cao trong hội thao. Kết quả công tác huấn luyện và hội thao quân sự từ năm 2004 đến năm 2009 đều đạt loại khá.
Ngoài Kế hoạch huấn luyện quân sự hàng năm, Ban Chỉ huy quân sự Bộ Tư pháp còn xây dựng Kế hoạch tác chiến bảo vệ trật tự, trị an trong khu vực cơ quan đóng trụ sở; xây dựng phương án phòng, chống cháy, nổ; phương án phòng, chống bạo loạn, gây mất trật tự khu vực cơ quan.
6. Bảo đảm ngân sách và thực hiện chính sách hậu phương quân đội
Thực hiện Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Pháp lệnh Dự bị động viên, hàng năm, Ban Chỉ huy quân sự Bộ Tư pháp đã chủ động lập kế hoạch ngân sách bảo đảm cho công tác quốc phòng - quân sự địa phương. Trung bình mỗi năm, Bộ Tư pháp đã giành từ 10 đến 15 triệu đồng đảm bảo cho các hoạt động của công tác quốc phòng, quân sự địa phương.
Nguồn kinh phí phục vụ các hoạt động của công tác quốc phòng được sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ tài chính như: mua sắm đồng phục cho đơn vị tự vệ, thực hiện chế độ bồi dưỡng chiến sĩ tự vệ tham gia huấn luyện, hội thao quân sự hàng năm...
Thực hiện các chính sách xã hội, chính sách hậu phương quân đội, Bộ Tư pháp đã tích cực hưởng ứng phong trào đền ơn đáp nghĩa, đóng góp xây dựng nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách, ủng hộ đồng bào vùng bão lụt; gặp gỡ, động viên những đối tượng chính sách trong cơ quan nhân ngày Thương binh, liệt sĩ 27/7; tổ chức gặp mặt chiến sĩ tự vệ nhân ngày truyền thống 22/12.
7. Phối hợp với cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng
Thực hiện Quyết định số 38/2005/QĐ - BQP ngày 06/4/2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc ban hành Quy chế giao ban, báo cáo, kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác quốc phòng, dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng, Ban Chỉ huy quân sự Bộ Tư pháp chấp hành tốt chế độ giao ban với cơ quan quân sự địa phương; thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo sơ kết, tổng kết công tác quốc phòng hàng năm và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của cơ quan quân sự.
Ban Chỉ huy quân sự cơ quan thường xuyên có mối quan hệ với các đơn vị chức năng của Bộ Quốc phòng, góp ý các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Quốc phòng soạn thảo.
NHỮNG TỒN TẠI - NGUYÊN NHÂN
1. Những tồn tại:
Trong 5 năm thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ-CP về công tác quốc phòng ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các địa phương và 4 năm thực hiện Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, công tác quốc phòng tại Bộ Tư pháp còn một số tồn tại như sau:
- Chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các đơn vị đối với công tác quốc phòng, an ninh trong cơ quan. Mối quan hệ giữa Ban Chỉ huy quân sự với Thủ trưởng các đơn vị chưa được duy trì thường xuyên nên chưa khai thác hết thế mạnh của từng đơn vị;
- Cán bộ Ban Chỉ huy quân sự đều là kiêm nhiệm, cơ quan chưa có cán bộ quân sự chuyên trách nên chưa thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ công tác quốc phòng theo quy định. Hoạt động của Ban Chỉ huy quân sự chưa được duy trì thường xuyên nên việc triển khai công tác quốc phòng có lúc còn chậm;
- Kết quả hoạt động của công tác quốc phòng chưa cao. Tỉ lệ cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, tham gia huấn luyện quân sự chưa cao; chất lượng huấn luyện, hội thao quân sự cần được nâng lên một bước.
- Một số đồng chí thuộc đối tượng 2 đã đăng ký dự các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh nhưng vì nhiều lý do không tham dự; vì vậy đã ảnh hưởng đến kết quả của Bộ, không hoàn thành chỉ tiêu được giao.
- Từ năm 2004 đến nay, việc đăng ký sĩ quan, quân nhân dự bị còn chậm so với thời gian quy định. Cá biệt, năm 2007 có 01 trường hợp không thực hiện lệnh điểm danh tập trung đã được Bộ Tư pháp chỉ đạo đơn vị kiểm điểm, phê bình và đề nghị Ban chỉ huy quân sự quận Ba Đình tiếp tục gọi điểm danh tập trung trong năm 2008.
2. Nguyên nhân:
- Nhận thức của một số cán bộ về nhiệm vụ công tác quốc phòng, quân sự địa phương chưa thật đầy đủ, trách nhiệm đối với công tác này chưa cao;
- Sự quan tâm của cấp ủy, Thủ trưởng một số đơn vị đối với công tác quốc phòng, an ninh chưa đúng mức; việc chỉ đạo công tác quốc phòng, an ninh có nơi còn mang tính hình thức;
- Ban chỉ huy quân sự Bộ chưa được kiện toàn; chưa có cán bộ làm công tác quân sự chuyên trách.
Phần 2
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC QUỐC
PHÒNG NĂM 2010
Năm 2010, việc chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác quốc phòng ở Bộ Tư pháp có nhiều thuận lợi cơ bản. Tuy nhiên, tình hình trong nước còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như tình hình thiên tai, bão lụt, tình hình kinh tế - xã hội có những diễn biến phức tạp, khó lường; Đáng chú ý là tình hình tranh chấp biên giới trên biển Đông. Mặt khác, tiến trình cổ phần hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức mới trong công tác quốc phòng, an ninh. Vì vậy, công tác quốc phòng năm 2010 ở Bộ Tư pháp cần tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ, biện pháp chủ yếu sau:
I. NHIỆM VỤ
1. Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (Khoa IX), những quan điểm định hướng lớn về tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, cần quán triệt thực hiện tốt các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 (Khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Chỉ thị số 12- CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Quán triệt, triển khai thực hiện Luật Dân quân tự vệ và các văn bản pháp luật có liên quan đến quốc phòng, an ninh.
2. Ban Chỉ huy quân sự Bộ Tư pháp thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp Lãnh đạo Bộ tổ chức, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng , quân sự theo đúng tinh thần Chỉ lệnh số 39/CL-TM ngày 26 tháng 11 năm 2009 của Bộ Tổng Tham mưu về Công tác dân quân tự vệ và công tác giáo dục quốc phòng, an ninh năm 2010; kế hoạch số 5639/BTTHĐ-BQP ngày 19/10/2009 của Hội đồng Giáo dục quốc phòng, an ninh Trung ương và Kế hoạch số 975/KH-DQ ngày 18/12/2009 của Cục Dân quân tự vệ về thực hiện nhiệm vụ Ngành dân quân tự vệ năm 2010 đã được Bộ Tổng Tham mưu phê duyệt. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan của Bộ Quốc phòng và cơ quan quân sự địa phương tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự.
3. Thường xuyên nắm chắc đối tượng cần được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh; tích cực, chủ động trong việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho các đối tượng 3, 4, 5, bảo đảm trong năm 2010 đạt trên 50% tổng số đối tượng cần được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh; trọng tâm năm 2010 của Bộ là bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho trên 50 % đối tượng 2 tại các trường quân sự Quân khu 1, 2, 3, Bộ Tư lệnh Thủ đô và Học viện Chính trị quân sự. Chỉ đạo thực hiện tốt nội dung, chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho học sinh, sinh viên các trường đại học, trung học do Bộ quản lý; đổi mới phương pháp, biện pháp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ, công chức và người lao động trong cơ quan Bộ.
4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ huy quân sự Bộ và Ban chỉ huy quân sự các đơn vị thành viên; củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng tự vệ theo đúng quy định của Pháp lệnh Dân quân tự vệ, bảo đảm quy mô, số lượng phù hợp, chất lượng chính trị và độ tin cậy cao; chỉ đạo thực hiện tốt công tác huấn luyện, hội thao cho lực lượng tự vệ, bảo đảm trên 90% quân số được huấn luyện. Thực hiện tốt công tác tuyển quân, công tác đăng ký nghĩa vụ quân sự; công tác xây dựng, quản lý lực lượng dự bị động viên và hoàn thành tốt nhiệm vụ động viên theo kế hoạch được giao. Chú trọng chỉ đạo thực hiện việc nâng cao hiệu quả hoạt động sẵn sàng chiến đấu, phòng chống bão, lụt, khắc phục hậu quả thiên tai, địch họa và các hoạt động khác liên quan tới quốc phòng ở địa bàn cơ quan đóng trụ sở. Chỉ đạo thực hiện tốt việc tổ chức tổng kết và báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh Dân quân, tự vệ, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên.
5. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng và cơ quan quân sự địa phương để kịp thời điều chỉnh, bổ sung kế hoạch động viên, động viên công nghiệp; triển khai xây dựng kế hoạch B, kế hoạch động viên quốc phòng của ngành theo sự hướng dẫn của các cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng. Chỉ đạo các đơn vị thành viên rà soát, củng cố, bổ sung phương án chiến đấu bảo vệ cơ quan, kế hoạch phòng chống cháy nổ, phòng chống bão, lụt, tìm kiếm cứu nạn, bảo đảm thực hiện tốt công tác sẵn sàng chiến đấu. Phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với cơ quan quân sự địa phương chỉ đạo lực lượng tự vệ tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi cơ quan đứng chân.
6. Thực hiện tốt việc bảo đảm chế độ chính sách cho lực lượng tự vệ, dự bị động viên và bảo đảm ngân sách cho công tác quốc phòng, quân sự; tích cực tham gia thực hiện chính sách hậu phương quân đội và chế độ chính sách xã hội có liên quan đến công tác quốc phòng - an ninh.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP CHÍNH
1. Ban Chỉ huy quân sự tham mưu cho Lãnh đạo Bộ kịp thời xây dựng, ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác quốc phòng, quân sự theo Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chỉ lệnh của Tổng Tham mưu trưởng về công tác quốc phòng, công tác dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng và các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác quốc phòng, quân sự của các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng.
2. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác quốc phòng, quân sự cho cán bộ Ban Chỉ huy quân sự, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác quốc phòng, quân sự nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực tham mưu, tổ chức thực hiện công tác quốc phòng, quân sự tại cơ quan Bộ.
3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa Ban Chỉ huy quân sự với các cơ quan, đơn vị liên quan của Bộ Quốc phòng. Đặc biệt, chủ động phối hợp với cơ quan quân sự địa phương để tổ chức thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng, an ninh theo quy định của Bộ Quốc phòng.
4. Củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ huy quân sự theo Quyết định số 209/2006/QĐ-BQP ngày 18/12/2006 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về quy chế hoạt động của Ban Chỉ huy quân sự và Quyết định số 189/2006/QĐ-BQP ngày 11/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về chức trách, nhiệm vụ, mối quan hệ của cán bộ Ban Chỉ huy quân sự cơ quan, tổ chức, kịp thời kiện toàn Ban Chỉ huy quân sự Bộ và cán bộ chuyên trách công tác quốc phòng, quân sự theo quy định.
5.Thực hiện tốt chế độ giao ban, báo cáo, kiểm tra, sơ kết, tổng kết theo Quyết định số 38/2005/QĐ-BQP ngày 06/4/2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ban Chỉ huy quân sự xác định kế hoạch, biện pháp cụ thể để tổ chức kiểm tra, đôn đốc việc chỉ đạo thực hiện công tác quốc phòng, quân sự ở các đơn vị, đồng thời tổng hợp báo cáo kết quả về Cơ quan Thường trực công tác quốc phòng của Bộ Quốc phòng theo quy định.
6. Ban Chỉ huy quân sự tham mưu, đề xuất và thực hiện tốt việc dự toán bảo đảm kinh phí, ngân sách cho công tác quốc phòng, quân sự theo quy định tại Nghị định số 184/2004/NĐ-CP ngày 02/11/2004 của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện Pháp lệnh Dân quân tự vệ và Nghị định số 10/2004/NĐ-CP ngày 7/01/22004 của Chính phủ quy định về quản lý, sử dụng tài sản, ngân sách Nhà nước đối với một số hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
III. ĐỀ XUẤT - KIẾN NGHỊ
Để công tác quốc phòng, công tác quân sự địa phương hoạt động có nền nếp, chất lượng và hiệu quả, Bộ Tư pháp đề nghị:
1. Bộ Quốc phòng chú trọng việc củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ huy quân sự các cấp; kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên trách theo hướng biệt phái sĩ quan quân đội làm công tác quân sự chuyên trách tại các Bộ, ngành ở Trung ương.
2. Bộ Quốc phòng chỉ đạo các trường quân sự có kế hoạch mở các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng 3, 4, 5 ngay từ đầu năm để các cơ quan, đơn vị chủ động sắp xếp cán bộ dự học theo chỉ tiêu được thông báo.
3. Cục Dân quân tự vệ nghiên cứu, đề xuất với Bộ Quốc phòng cải tiến nội dung, chương trình, thời gian, phương pháp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, huấn luyện quân sự đối với từng đối tượng cho phù hợp với điều kiện của các cơ quan dân sự.
4. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác quốc phòng ở các Bộ, ngành, Bộ Tư pháp đề nghị Bộ Quốc phòng đề nghị các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao về công tác quốc phòng ở các Bộ, ngành và địa phương.
Trên đây là tổng kết quả 5 năm thực hiện Nghị định số 119/2004/NĐ-CP của Chính phủ về công tác quốc phòng gắn với sơ kết 4 năm thực hiện Chỉ thị 36/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới tại Bộ Tư pháp, xin báo cáo Bộ Quốc phòng.
Nơi nhận: - Cục Dân quân tự vệ (b/c) - Bộ trưởng (để b/c); - Thủ trưởng các đơn vị (để t/h); - Ban CHQS (để t/h); - Lưu: VT | KT. BỘ TRƯỞNG THỨ TRƯỞNG (Đã ký)
Đinh Trung Tụng |
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây