Bản án số 585/2024/HC-PT ngày 24/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 585/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 585/2024/HC-PT ngày 24/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 585/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/10/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Xuân Trọng;
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Mai;
Bà Hoàng Thị Bích Hải.
Thư Toà án ghi biên bản phiên tòa: Nguyễn Hương Lê, Thẩm tra
viên chính Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Minh Ngọc, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở a án nhân dân cấp cao tại Nội, Tòa
án nhân dân cấp cao tại Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án
hành chính thụ s 381/2024/TLPT-HC ngày 20 tháng 8 năm 2024 về việc
khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, do Bản án hành
chính thẩm số 32/2024/HC-ST ngày 06 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Hải Phòng có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11423/2024/QĐ-PT ngày 08
tháng 10 năm 2024, giữa:
1. Người khởi kiện: Nguyễn ThThu H; đăng hộ khẩu thường trú:
Số C đường N, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số B đường H,
phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện:
- Ông Trần Văn H1 - Luật sư Công ty L Cộng sự thuộc đoàn luật
thành phố H; địa chỉ: A, khu Đ, phường D, quận C, thành phố Nội;
mặt.
- Ông Trần Đại P - Luật Công ty L1; địa chỉ: P906 T Khu đô thị M,
phường M, quận N, thành phố Hà Nội; có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 585/2024/HC-PT
Ngày: 24/10/2024
V/v Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Người bkiện: Ủy ban nhân dân quận N Chủ tịch Ủy ban nhân dân
quận N; địa chỉ: B, khu đô thị M - Sân bay C, phường Đ, quận N, thành phố
Hải Phòng.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông C; chức vụ: P
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N; vắng mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn Q; đăng
hộ khẩu thường trú: Số C đường N, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng;
chỗ ở: Số B đường H, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo uquyền ông Phạm Văn Q (văn bản uỷ quyền ngày
13/3/2024):
- Ông Phạm Hữu C1; nơi đăng ký thường trú: Số G N, phường L, quận N,
thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Số A, ngõ P, đường P, phường Đ, quận N,
thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Ông Trần Minh P1; đăng hộ khẩu thường trú: SA N, phường L,
quận N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số F ngõ A Đ, quận D, thành phố Hải
Phòng; có mặt.
- Ông Đặng Đình P2; nơi đăng hộ khẩu thường trú: m C, T,
huyện T, tỉnh Hòa Bình, có mặt.
- Ông Ngô Duy H2; nơi đăng thường trú: Số D N, phường L, quận N,
thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Số A, ngõ A, đường L, phường Đ, quận L,
thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bà Nguyễn Thị Thu H; nơi đăng ký thường trú: Số C N, phường L, quận
N, thành phố Hải Phòng; nơi hiện nay: Số B H, phường T, quận L, thành phố
Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khi kiện, đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trong quá trình
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa thẩm, người khởi kiện, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện thống nhất trình bày:
Diện tích đất gia đình H sử dụng tại số C đường N có nguồn gốc là đất
do gia đình bà Trần Thị S khai hoang, vượt lập. Năm 1979, ông Q (chồng của bà
H) nhận chuyển nhượng diện tích đất từ bà S, việc mua bán có lập thành văn bản
chứng thực chữ của UBND phường L ngày 16/02/1994. Qtrình sử
dụng đất, năm 1996, thực hiện Dự án Đường E, Nhà nước đã thu hồi một phần
diện tích đất của gia đình H xác định loại đất đất ở, đủ điều kiện bồi
thường toàn bộ diện tích đất bị thu hồi. Năm 2001, UBND phường L tiến hành
khảo sát, đo đạc thực tế hiện trạng sử dụng đất của gia đình H cấp cho gia
đình bà Biên bản xác định ranh giới và hồ sơ kỹ thuật thửa đất xác định gia đình
H sử dụng 76,7m
2
. Ngày 13/5/2020, Trung tâm K1 lập Trích lục địa chính số
69/2020-TL ghi nhận gia đình H sử dụng 79m
2
đất ở. Trong suốt quá trình sử
dụng đất, gia đình không có tranh chấp, không có hành vi vi phạm về đất đai nên
3
đủ điều kiện được bồi thường 100% giá trị quyền sử dụng 79m
2
đất vật kiến
trúc trên đất - khoản 1 Điều 101 Luật Đất đai 2013. Tuy nhiên tại phiên toà
người khởi kiện cho rằng năm 2001 đo vẽ bản đồ địa chính phường thộ ông
Q, bà H đăng ký tại thửa đất số 57, tờ bản đồ LT-22, diện tích 76,7m
2
, mục đích
làm nhà nên hộ ông Q phải được bồi thường 100% giá trị quyền sử dụng đất
với diện tích 76,7m
2
chứ không phải 79m
2
như trong quá trình giải quyết vụ án
người khởi kiện đã trình bày.
Khi thu hồi UBND phường quận đã xác định sai nguồn gốc đất, diện
tích thu hồi (chỉ xác định và chi trả bồi thường diện tích đất 58,64m
2
), không bồi
thường đủ giá trị đất không cung cấp được văn bản chứng minh không
đúng. Hợp tác N1 hợp tác N1, trụ sở nằm trên địa giới hành chính
huyện A (nay quận L), tách biệt với quận N, giới hạn bởi đường L mương
An Kim H3; nên việc cho rằng diện tích đất của gia đình H thuộc hồ Hợp
tác xã N1 là không có căn cứ, không có tài liệu chứng minh Hợp tác xã N1 được
UBND quận N giao đất, không biên bản hay quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với gia đình bà H.
Khi thu hồi đất, gia đình H được hỗ trợ tạm lánh để thuê ntrong khi
chờ đợi việc xây dựng công trình nhà ở trên đất tái định cư; tuy nhiên đến nay đã
01 năm nhưng gia đình người khởi kiện chưa nhận được đất tái định trong
khi số tiền hỗ trợ đã sử dụng nên gia đình H đnghị chi trả thêm tiền tạm
lánh cho đến khi xét xử sơ thẩm.
Tại phiên toà thẩm người khởi kiện cho rằng UBND quận N bồi
thường với đơn giá đất như phương án bồi thường chưa chính xác bởi lẽ diện
tích đất của người khởi kiện nằm hai mặt đường là Nguyễn Bỉnh K và Bạch Thái
B nên phải được tăng thêm 10% theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 quy
định về bảng giá đất thành phố năm 2020-2024 ban hành kèm theo Quyết định
số 54 năm 2019 so với Quyết định phê duyệt giá đất số 1535 ngày 26/5/2022.
Ngày 14/12/2022, Chủ tịch UBND quận N tổ chức cưỡng chế thu hồi đất
đối với gia đình người khởi kiện hoàn toàn trái luật, bởi lẽ: Về nội dung, việc
ban hành quyết định cưỡng chế tổ cưỡng chế thu hồi đất dựa trên căn cứ
các quyết định thu hồi đất trái luật như đã trình bày trên; Về trình tự thủ tục,
trước khi bị cưỡng chế gia đình H hoàn toàn không nhận được quyết định
cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai
năm 2013.
UBND phường quận cho rằng ông Q (chồng H) hành vi xây
dựng trái phép nhà, lều quán, gạch, ngói, vôi các công trình khác trong
phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi (mương An Kim H3) và lập biên bản vi phạm
hành chính, biên bản xác minh tình tiết vi phạm không thông báo, gia đình
không được giải trình là không đúng. Căn cứ Trích lục địa chính số 69/2020-TL,
gia đình người khởi kiện không hành vi lấn hành lang mương An Kim H3
hành lang an toàn đường bộ. Từ đó dẫn đến việc ban hành Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính; Quyết định về việc sửa đổi, bổ sung một phần quyết định
4
trong xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả là không đúng.
Tại phiên tthẩm người khởi kiện rút yêu cầu buộc UBND quận N
phải bồi thường cho gia đình số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng);
Do vậy bà Nguyễn Thị Thu H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy Quyết định số 3133/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân quận N về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng h
tầng k thuật phục vụ các Dự án đầu cải tạo chung cư cũ trên địa bàn phường
Đ (giai đoạn 1) (gọi tắt là Quyết định 3133).
- Hủy Quyết định số 3148/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân quận N về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
đối với các hộ gia đình, nhân đất thu hồi thực hiện Dự án Đầu xây
dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ các Dự án đầu tư cải tạo chung cư cũ trên địa bàn
phường Đ (giai đoạn 1) tại phường L, quận N, thành phố Hải Phòng (kèm theo
phương án bồi thường của hộ gia đình ông Phạm Văn Q (gọi tắt Quyết định
3148).
- Tuyên hành vi tổ chức cưỡng chế thu hồi đất ngày 14/12/2022 của Chủ
tịch UBND quận N là hành vi hành chính trái luật.
- Hủy Quyết định số 3324/QĐ-UBND ngày 28/11/2022 về việc cưỡng chế
thu hồi đất của hộ gia đình ông Phạm Văn Q (gọi tắt là Quyết định 3324).
- Hủy Quyết định số 2540/QĐ-KPHQ ngày 07 tháng 10 năm 2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc xử phạt vi phạm hành chính (gọi tắt là
Quyết định 2540).
- Hủy Quyết định số 2877/QĐ-SĐBSHB ngày 02 tháng 11 năm 2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc sửa đổi, bổ sung một phần quyết định
trong xử phạt vi phạm hành chính (gọi tắt là Quyết định 2877)
- Hủy Quyết định số 3246/QĐ-CCXP ngày 23 tháng 11 năm 2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính (gọi tắt là Quyết định 3246).
Tại Văn bản trình bày ý kiến, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như
tại phiên tòa, người bị kiện người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
người bị kiện trình bày:
Diện tích đất của hộ ông Phạm Văn Q (vợ Nguyễn Thị Thu H) bị thu
hồi nguồn gốc đất hcủa Hợp tác N1, bà Nguyễn Thị N tự vượt lập
trước năm 1980 để làm nhà ở. Sau đó N cho con gái là Trần Thị S (Giấy tờ
tặng cho đã bị thất lạc). Đến năm 1994, bà Trần Thị S bán lại cho ông Phạm Văn
Q bà Phạm Thị M diện ch 120m
2
(giấy mua bán xác nhận của UBND
phường ngày 16/02/1994).
Theo bản đồ địa chính đường 5 năm 1996, ông Phạm Văn Q đứng tên tại
thửa đất số 85, 85a, 85b, diện tích sử dụng 140,64m
2
, phần diện tích biến
5
động tăng 20,64m
2
so với Đơn nhượng lại nhà của UBND phường L ngày
16/02/1994 do ông Q tự san lấp sau khi đường bao phía Nam, diện tích
20,64m
2
đã được thu hồi dự án đường 5 năm 1997, diện tích trong chỉ giới thu
hồi 82m
2
(thực tế thu hồi 81,07m
2
trong đó biến động giảm 0,93m
2
do sai
khác thực tế kiểm tra đất đai); diện tích còn lại 58,64m
2
do hộ S tự ý
chuyển mục đích sử dụng đất làm ntrước ngày 15/10/1993. Hiện tại hộ ông
Q sử dụng ổn định, không tranh chấp.
Năm 2001 đo vẽ bản đồ địa chính phường, ông Phạm Văn Q đăng tại
thửa đất số 57, tờ bản đồ LT-22, mục đích sdụng làm nhà ở, diện tích 76,7m
2
,
biến động tăng 18,06m
2
, trong đó 6,2m
2
đất hành lang an toàn đường bộ
11,86m
2
sử dụng ra mương An Kim H3.
Năm 2020, lập trích lục địa chính số 69/2020/TL-1/500 hộ ông Phạm Văn
Q sử dụng đất tại thửa số 57, diện tích 79,0m
2
. Biến động tăng so với diện tích
trong bản đồ địa chính 2001 là 2,3m
2
do tiếp tục lấn ra đất thuỷ lợi.
Căn cứ nguồn gốc sử dụng đất của các hộ gia đình đất bị thu hồi thực
hiện Dự án do UBND phường L báo cáo; Phòng T thẩm định, Ủy ban nhân dân
quận N đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Theo kết quả
thẩm định, hông Q bị thu hồi 79m
2
đất, đủ điều kiện bồi thường về đất với
diện tích 58,64m
2
nhưng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính 50% theo quy định tại
Điều 75 Luật Đất đai; khoản 2 Điều 6 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 12 năm 2014 của Chính phủ. Ủy ban nhân dân quận N ban hành Quyết
định số 3148/QĐ-UBND ngày 17/11/2022 về việc phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư; Quyết định s3958/QĐ-UBND ngày 30/12/2022 về
việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ đối với ông
Phạm Văn Q Quyết định s3133/QĐ-UBND ngày 17/11/2022 về việc thu
hồi đất đối với hộ ông Phạm Văn Q. Theo đó hộ ông Phạm Văn Q được bồi
thường về đất 1.410.292.000 đồng; bồi thường về vật kiến trúc 616.367.281
đồng; cây cối hoa màu 1.300.000 đồng; hỗ trợ di chuyển 5.000.000 đồng; các hỗ
trợ khác 41.000.000 đồng được đủ điều kiện giao 01 suất tái định đảm
bảo quy định của pháp luật.
Căn cứ Bản đồ địa chính thực hiện Dự án đường 5 năm 1996 phương
án bồi thường thì phần diện tích đất còn lại sau thu hồi đất phục vụ dán tuyến
đường 5 kéo dài đủ điều kiện bồi thường đất ở. Đối chiếu với Bản đồ địa
chính phường Lạch Tray năm 2001, Trích lục địa chính năm 2020 thì phần diện
tích đất biến động tăng được xác định là đất do các hộ dân chiếm dụng. vậy,
Ủy ban nhân dân phường L đã lập biên bản vi phạm hành chính và biên bản xác
minh tình tiết vi phạm đối với ông Phạm Văn Q. Việc lập biên bản vi phạm hành
chính, biên bản xác minh tình tiết vụ việc vi phạm hành chính đảm bảo đúng
quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do hành vi xây dựng trái phép nhà
và công trình khác trên đất thuộc phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi kết thúc vào
năm 2006, đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính nên chỉ áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả. Đối với hành vi lấn chiếm đất hành lang an toàn đường
bộ được quy định cụ thể tại điểm c khoản 9 Điều 12 Nghị định số 100/2019/NĐ-
6
CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bvà đường sắt vẫn còn thời hiệu khởi kiện nên Chủ
tịch UBND quận N, thành phố Hải Phòng đã ban hành Quyết định xphạt vi
phạm hành chính số 2540/QĐ-XPHC ngày 07 tháng 10 năm 2022; Quyết định
số 2610a/QĐ-ĐC ngày 17/10/2022 đính chính Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính; Quyết định số 2877/QĐ-SĐBSHB ngày 02 tháng 11 năm 2022 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc sửa đổi, bổ sung một phần quyết định
trong xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định số 3246/QĐ-CCXP ngày 23
tháng 11 năm 2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc cưỡng chế thi
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đảm bảo đúng quy định của pháp
luật.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Văn Q nhất trí với
ý kiến trình bày và yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu H.
Tại Bản án hành chính thẩm số 32/2024/HC-ST ngày 06 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã căn cứ vào các Điều 30, 32,
116, 157, 158, 162, 163, 173, 193, 194, 206 348 của Luật Tố tụng hành
chính;
Căn cứ Điều 62, 66, 67, 69, 71, 74, 75, 79, 83, 86 của Luật Đất đai năm
2013;
Căn cứ Điều 6, 18, 28, 38, 54, 58, 59, 65, 66, 85, 86 và 87 của Luật Xử lý
vi phạm hành chính;
Căn cứ Điều 18; Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5
năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất
đai;
Căn cứ khoản 2 Điều 6 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5
năm 2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất;
Căn cứ Điều 13 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014
của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định khi Nnước thu hồi
đất;
Căn cứ Khoản 1 Điều 5; điểm c khoản 5 và điểm b khoản 7 Điều 12 Nghị
định số 140/2005/NĐ-CP ngày 11/11/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
Căn cứ điểm a khoản 9; điểm đ khoản 10 Điều 12 Nghị định số
100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ v xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Căn cứ Nghị định số 123/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ, đường sắt, hàng
không dân dụng.
7
Căn cứ Điều 14 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của
Chính phủ quy định chi tiết một sđiều biện pháp thi hành luật xử phạt vi
phạm hành chính;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
Xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Nguyễn Thị H về việc buộc Ủy
ban nhân dân quận N, thành phố Hải Phòng phải bồi thường số tiền 100.000.000
đồng (một trăm triệu đồng).
2. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu H về việc:
- Hủy Quyết định số 3133/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân quận N về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng hạ
tầng k thuật phục vụ các Dự án đầu tư cải tạo chung cư trên địa bàn phường
Đ (giai đoạn 1).
- Hủy Quyết định số 3148/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân quận N về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
đối với các hộ gia đình, nhân đất thu hồi thực hiện Dự án Đầu xây
dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ các Dự án đầu tư cải tạo chung cư cũ trên địa bàn
phường Đ (giai đoạn 1) tại phường L, quận N, thành phố Hải Phòng (kèm theo
phương án bồi thường của hộ gia đình ông Phạm Văn Q)
- Huỷ Quyết định 3324/QĐ-UBND ngày 28/11/2022 của Chủ tịch UBND
quận N về việc cưỡng chế thu hồi đất.
- Hủy Quyết định số 2540/QĐ-XPHC ngày 07 tháng 10 năm 2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc xử phạt vi phạm hành chính.
- Hủy Quyết định số 2877/QĐ-SĐBSHB ngày 02 tháng 11 năm 2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc sửa đổi, bổ sung một phần quyết định
trong xử phạt vi phạm hành chính.
- Hủy Quyết định số 3246/QĐ-CCXP ngày 23 tháng 11 năm 2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N về việc cưỡng chế thi hành quyết định xử
phạt vi phạm hành chính.
- Hành vi tổ chức cưỡng chế thu hồi đất là trái pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí thông báo
quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 06/5/2024, người khởi kiện bà Nguyễn Thị Thu H có đơn kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và thống nhất với trình
bày của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện như sau:
8
Nguồn gốc đất do gia đình Trần Thị S khai hoang, vượt lập. Năm 1979,
ông Q (chồng của bà H) nhận chuyển nhượng diện tích đất từ bà S, việc mua bán
lập thành văn bản chứng thực chữ của UBND phường L ngày
16/02/1994. Thực hiện Dự án Đường E, Nhà nước đã thu hồi một phần diện tích
đất của gia đình bà H và xác định loại đất đất ở, đủ điều kiện bồi thường toàn
bộ diện tích đất bị thu hồi. Năm 2001, UBND phường L tiến hành khảo sát, đo
đạc thực tế hiện trạng sử dụng đất của gia đình bà H và cấp cho gia đình bà Biên
bản xác định ranh giới và hồ sơ kỹ thuật thửa đất xác định gia đình bà H sử dụng
76,7m
2
. Trong suốt quá trình sử dụng đất, gia đình không tranh chấp, không
hành vi vi phạm về đất đai nên đủ điều kiện được bồi thường 100% giá trị
quyền sử dụng 76,7m
2
, mục đích làm nnên phải được bồi thường 100% giá
trị quyền sử dụng đất. Nhưng khi thu hồi UBND phường và quận đã xác định sai
nguồn gốc đất, diện tích thu hồi (chỉ xác định và chi trả bồi thường diện tích đất
58,64m
2
) là không đúng, việc cho rằng diện tích đất của gia đình H thuộc hồ
Hợp tác xã N1 là không có căn cứ, không có biên bản hay quyết định xử phạt
vi phạm hành chính đối với gia đình bà. Việc hỗ trợ tiền thuê nhà 6 tháng
không đúng gia đình người khởi kiện đã phải thuê chỗ gần 2 năm do chưa
được cấp đất tái định cư.
Các quyết định: Xử phạt vi phạm hành chính; Áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả; Cưỡng chế thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả dựa trên các
Biên bản vi phạm hành chính được lập trái luật, nên các quyết định này không
hợp pháp. Đặc biệt, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2540/QĐ-KPHQ
ngày 07/10/2022 được ban hành khi đã hết thời hiệu xử lý; Việc cho rằng gia
đình H vi phạm tự ý chuyển mục đích trái phép điều hoàn toàn trái luật,
không có căn cứ hợp pháp.
Cùng một vấn đề như nhau, nhưng UBND huyện T và UBND quận N đã
có những cách giải quyết hoàn toàn khác nhau, mặc dù đều áp dụng Luật Đất đai
năm 2013, là: UBND huyện T công nhận người dân được bồi thường 100% diện
tích trong hạn mức đất không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính còn UBND
quận N người dân phải thực hiện nghĩa vtài chính 50%. Năm 2022, TAND
thành phố Hải Phòng nhận định rằng việc bồi thường của UBND huyện T cho
gia đình nhà ông H4, H5 100% diện tích bị thu hồi và không phải thực hiện
nghĩa vụ tài chính đúng thì nay (năm 2024) TAND thành phố Hải Phòng lại
nhận định rằng việc bồi thường của UBND quận N cho gia đình bà H (phải thực
hiện nghĩa vụ tài chính 50%) ng là đúng. Như vậy, cùng 01 vấn đề như nhau,
nhưng TAND thành phố Hải Phòng có 02 cách giải quyết khác nhau.
TAND thành phố Hải Phòng sử dụng các tài liệu không căn cứ để giải
quyết vụ án, đó Phiếu thu thập ý kiến khu dân lập vào ngày 09/8/2022
được lập sai cả vtrình tlẫn nội dung. Về Thông báo số 673 ngày 18/11/2022
của UBND thành phố H, Thông báo này căn cứ vào Báo cáo 220 ngày
27/10/2022 của UBND phường L mà Báo cáo 220 này được lập trái luật, không
phản ánh đúng nguồn gốc đất của bà H, nên Báo cáo này hoàn toàn không có giá
trị. Thông báo số 673 dựa trên căn cứ Báo cáo 220 thế cũng hoàn toàn không
giá trị pháp lý. Về Bản đồ địa giới hành chính phường L, đây bản đồ địa
9
giới hành chính chức năng phân định ranh giới, mốc giới giữa phường L
các phường xung quanh, không giá trị trong quản đất đai. vậy, việc
TAND thành phố Hải Phòng sử dụng tài liệu này để giải quyết vụ án hoàn
toàn không sở. Đối với Biên bản kiểm tra lập ngày 13/4/1994 đối với gia
đình ông Phạm Văn Q, tài liệu này bản phô tô, không công chứng, chứng
thực không được phía Nguyễn Thị Thu H thừa nhận, nên tài liệu này
không phù hợp với quy định của Điều 82 - Luật Tố tụng hành chính.
Từ những phân tích nêu trên thấy rằng yêu cầu khởi kiện của Nguyễn
Thị Thu H là hoàn toàn căn cứ, hợp pháp. TAND thành phố Hải Phòng trong
quá trình giải quyết vụ án đã hoàn toàn không đánh giá đầy đủ các tài liệu trong
hồ vụ án, chấp nhận những lời trình bày không căn cứ bên phía người bị
kiện mà chúng tôi đã viện dẫn trên, từ đó bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
H. Vì lẽ đó, kính đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo, yêu cầu
khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu H.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn Q những người
đại diện theo ủy quyền của ông Q đồng tình với quan điểm của H người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bà H.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư phiên tòa đã tuân thủ
đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án.
Về nội dung: Các quyết định của Ủy ban nhân dân quận N Chủ tịch
UBND quận N, thành phố Hải Phòng ban hành đúng trình tự, thủ tục và nội
dung. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng
hành chính bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên toàn bộ
quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của Người khởi kiện được gửi đến Tòa án nhân dân
thành phHải phòng đảm bảo đúng thời hạn, hình thức, nội dung phù hợp với
quy định tại các điều 204, 205 và Điều 206 Luật Tố tụng hành chính do đó được
xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa, người bị kiện đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng
hay trở ngại khách quan. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định
tại khoản 2 Điều 225 Bộ luật Tố tụng hành chính.
- Về thời hiệu khởi kiện đảm bảo thời hiệu theo quy định tại điểm a khoản
3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính
- Về thẩm quyền giải quyết: Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng thụ
giải quyết đúng theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3, Điều 30 khoản
4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính là đúng
10
[2] Xét kháng cáo của Nguyễn Thị Thu H Hội đồng xét xử thấy trong
vụ án này Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá chi tiết cụ thể từng vấn đề
các quyết định có liên quan cụ thể như sau:
[2.1] Ngoài xem xét các Quyết định số 3133; 3148, 3324, 2540; 3246 Tòa
án cấp thẩm còn xem xét đánh giá tính hợp pháp của Quyết định số 3958
Quyết định số 2610a.
[2.2] Về thẩm quyền ban hành các Quyết định đúng thẩm quyền theo
quy định tại các Điều 18, 28, 38, 54 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[2.3] Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định: Ngày 09 tháng 9 năm 2022,
Ủy ban nhân dân phường L lập biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai
số 14 đối với ông Phạm Văn Q do đã hành vi chiếm dụng đất làm hành lang
an toàn đường bộ để xây dựng nhà ở và hành vi xây dựng nhà ở, cầu kè, nơi sản
xuất và các công trình kiên cố khác không có giấy phép hoạt động trong phạm vi
bảo vệ công trình thủy lợi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Sau
khi lập biên bản vi phạm hành chính, để đảm bảo sự chính xác về đối tượng,
hành vi vi phạm nên UBND phường L đã lập biên bản xác minh tình tiết của vụ
việc vi phạm hành chính số 14 ngày 16/9/2022 đối với ông Phạm Văn Q. Các
biên bản trên bản đảm bảo đúng quy định tại Điều 58, Điều 59 của Luật Xử
lý vi phạm hành chính.
[2.4] Quá trình xem xét hồ của ông Phạm Văn Q xác định ông Q
hành vi vi phạm hành chính lấn chiếm đất diện tích 19,43m
2
thuộc một phần
thửa đất số 57 trích lục địa chính 69/2020-TL tỷ l1/500 do Trung tâm K1 lập
ngày 13/5/2020 thực hiện Dự án đầu xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ các
dự án đầu tư cải tạo chung cư cũ trên địa bàn phường Đ (giai đoạn 1). Phần diện
tích trên bao gồm: Kho 6,2m
2
đất hành lang an toàn đường bộ 13,23m
2
đất trong phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi. Hiện trạng là nhà 02 tầng trên phần
diện tích đã chiếm. Do hành vi xây dựng nhà trong phạm vi bảo vệ công tnh
thuỷ lợi đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính nên theo quy định tại khoản
1 Điều 5 Nghị định số 140/2005/NĐ-CP ngày 11/11/2005 của Chính phủ nên
Chủ tịch UBND quận N không ban hành quyết định xphạt hành chính đối với
hành vi trên.
[2.5] Đối với hành vi chiếm dụng đất hành lang an toàn đường bộ HĐXX
thấy mặc Trích lục địa chính số 69/2020/TL-1/500 lập ngày 13/5/2020 xác
định diện tích bị thu hồi của H, ông Q 79m
2
nhưng chưa xác định được
diện tích vi phạm của hộH, ông Q là bao nhiêu. Tại Trích đo hiện trạng tỷ lệ
1/500, hệ toạ độ VN-2000; Lo = 105 45 được lập ngày 08/9/2022 mới xác định
được diện tích vi phạm nên ngày 09/9/2022 UBND phường lập biên bản vi
phạm hành chính đối với ông Q xác định hành vi chiếm dụng đất hành lang
an toàn đường bộ hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện, vẫn còn thời
hiệu theo mục 2 khoản 2 Điều 2 Nghị định số 123/2021/NĐ-CP ngày
28/12/2021 của Chính phủ Điều 6 Luật xử vi phạm hành chính nên Chủ
tịch UBND quận N đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
ông Q về hành vi này là đúng quy định của pháp luật.
11
[2.6] Do phát hiện Quyết định số 2540 có sai sót về kỹ thuật soạn thảo văn
bản nên ngày 17/10/2022 Chủ tịch UBND quận N đã ban hành Quyết định số
2610a/QĐ-ĐC về việc đính chính quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính
phù hợp với quy định tại tại khoản 3 Điều 18 Luật xử vi phạm hành chính
Điều 14 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật xử phạt vi phạm hành chính.
[2.7] Sau khi ban hành Quyết định số 2540/QĐ-XPHC ngày 07 tháng 10
năm 2022, do Ủy ban nhân dân phường L báo cáo về việc điều chỉnh các báo
cáo xác định nguồn gốc sử dụng đất, sai sót trong việc xác định diện tích
hành vi vi phạm của ông Q. vậy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N đã ban
hành Quyết định số 2877/QĐ-SĐBSHB ngày 02 tháng 11 năm 2022 sửa đổi một
số nội dung của Quyết định số 2540/QĐ-XPHC, cụ thể: Xác định phần diện tích
20,36m
2
; trong đó lấn chiếm 6,2m
2
đất hành lang đường bộ; xây dựng nhà
trên phần diện tích 14,16m
2
trong phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi cũng như
do không xử phạt do hết thời hiệu ra quyết định xphạt vi phạm hành
chính quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định số 140/2005/-CP ngày 11 tháng
11 năm 2005 của Chính phủ. Việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N ban hành
Quyết định số 2877/QĐ-SĐBSHB sửa đổi, b sung một phần Quyết định số
2540/QĐ-XPHC phù hợp với quy định tại tại khoản 3 Điều 18 Luật xử vi
phạm hành chính và Điều 14 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều biện pháp thi hành luật xử phạt
vi phạm hành chính.
[2.8] Về nội dung của quyết định: Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn
Thị Thu H giao nộp cho Tòa án bản phô đơn nhượng lại nhà ở. Trong nội
dung đơn ghi “… tên tôi Trần Thị S tại số B L nay số B đường N (số
nhà mới) …gia đình tôi nhượng lại cho vợ chồng anh Phạm Văn Q một nửa
diện tích 120m
2
...” được UBND phường L xác nhận ngày 16/02/1994 với nội
dung UBND phường L xác nhận chữ ký của bà Trần Thị S ở tại số nhà B L, N,
Hải Phòng”. Theo bản đồ địa chính đường 5 năm 1996 ông Phạm Văn Q đứng
tên tại thửa đất số 85, 85a, 85b, diện tích sử dụng 140,64m
2
, phần diện tích
biến động tăng 20,64m
2
so với Đơn nhượng lại nhà xác nhận của UBND
phường L ngày 16/02/1994 do ông Q tự san lấp sau khi đường bao phía
Nam, diện tích 20,64m
2
đã được thu hồi dự án đường 5 năm 1997, diện tích
trong chỉ giới thu hồi 82m
2
(thực tế thu hồi 81,07m
2
trong đó biến động giảm
0,93m
2
do sai khác thực tế kiểm tra đất đai); diện tích còn lại 58,64m
2
do hộ
S tự ý chuyển mục đích sử dụng đất làm nhà trước ngày 15/10/1993. Hiện
tại hộ ông Q sử dụng ổn định, không tranh chấp. Năm 2001 đo vẽ bản đồ địa
chính phường, ông Phạm Văn Q đăng tại thửa đất số 57, tờ bản đồ LT-22,
mục đích sử dụng làm nhà ở, diện tích 76,7m
2
, biến động tăng 18,06m
2
, trong đó
có 6,2m
2
đất hành lang an toàn đường bộ và 11,86m
2
sử dụng ra mương An Kim
H3. Năm 2020, lập trích lục địa chính số 69/2020/TL-1/500 hộ ông Phạm Văn Q
sử dụng đất tại thửa số 57, diện tích 79,0m
2
. Biến động tăng so với diện tích
trong bản đồ địa chính 2001 2,3m
2
, do tiếp tục lấn ra đất thuỷ lợi. Diện tích
tăng thêm này phù hợp với trích đo hiện trạng tỷ lệ 1/500, htoạ độ VN-2000;
12
Lo = 105 45 khu đất giáp đường N đoạn từ cầu vượt Lạch Tray đến đường V dự
án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ các dự án đầu cải tạo chung
trên địa bàn phường Đ, quận N thuộc địa phận phường L, quận N, thành phố
Hải Phòng ngày 08/9/2022.
[2.9] Hộ ông Q, H cho rằng căn cứ vào Trích lục địa chính phường lập
năm 2001 thì gia đình là chủ sử dụng hợp pháp của diện tích 76,7m
2
đất. Hội
đồng xét xử thấy theo Trích lục địa chính lập năm 2020 thì 20,36m
2
đất (79m
2
-
58,64m
2
) hộ ông Q (vợ là H) sử dụng trong đó có 6,2m
2
đất hành lang đường bộ
xây dựng nhà trên phần diện tích 14,16m
2
trong phạm vi bảo vcông trình
thuỷ lợi. Điều này cũng phù hợp với kết luận của Đoàn kiểm tra tại Biên bản
kiểm tra số 18/BBKT ngày 13 tháng 4 năm 1994 do Sở Thủy lợi thành phố H
Ủy ban nhân dân phường L lập với nội dung: Ông Phạm Văn Q đã hành vi
chiếm đất, xây dựng nhà trên dải hành lang kênh An Kim H3; gia đình ông Q
phải đình chỉ ngay về việc xây dựng, tự tháo dỡ nhà, di chuyển toàn bộ người và
tài sản về nơi để trả lại mặt bằng cho Sở Thủy lợi quản chậm nhất
ngày 30 tháng 4 năm 1994. Do đó, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N ban
hành Quyết định số 2540/QĐ-XPHC ngày 07 tháng 10 năm 2022 về xử phạt vi
phạm hành chính với ông Phạm Văn Q về hành vi lấn chiếm đất hành lang
đường bộ với hình phạt chính phạt tiền 17.500.000 đồng phù hợp với quy
định tại điểm a khoản 9 Điều 12 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày
30/12/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ. Biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi này là “Buộc phải
phá dỡ công trình xây dựng trái phép và khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị
thay đổi do vi phạm hành chính gây ra phù hợp với quy định tại điểm đ
khoản 10 Điều 12 Nghị định s100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
đường sắt và điểm s khoản 34 Điều 2 Nghị định 123/2021/NĐ-CP ngày
28/12/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ,
đường sắt, hàng không dân dụng. Đối với hành vi xây dựng nhà trong phạm vi
bảo vệ công trình thuỷ lợi do hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính nên
không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà chỉ ra Quyết định buộc thực
hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi trên “Buộc tháo dỡ công
trình xây dựng trái phépphù hợp với điểm b khoản 7 Điều 12 Nghị định số
140/2005/NĐ-CP ngày 11/11/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
[2.10] Do ông Phạm Văn Q không thực hiện Quyết định số 2540/QĐ-
XPHC; Quyết định 2160a/QĐ-ĐC Quyết định số 2877/QĐ-SĐBSHB n
ngày 23 tháng 11 năm 2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N ban hành Quyết
định số 3246/QĐ-CCXP về việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính. Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo đúng quy định tại các điều
85, 86 và 87 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
13
- Đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Thu H về việc yêu cầu
Tòa án tuyên hủy Quyết định số 3133/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2022
của Ủy ban nhân dân quận N về việc thu hồi đất, Hội đồng xét xử thấy:
[2.11] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định: Ngày 11
tháng 5 năm 2022, Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số
1352/QĐ-UBND về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2022 quận Ngô
Quyền . Ủy ban nhân dân quận N đã ban hành Thông báo số 284/TB-UBND
ngày 17 tháng 5 năm 2022 về việc thu hồi đất; đảm bảo trong thời hạn 180 ngày
theo quy định tại khoản 1 Điều 67 của Luật Đất đai năm 2013. Việc thu hồi đất
với mục đích thực hiện Dự án đầu xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ các dự
án đầu tư cải tạo chung cư cũ trên địa bàn phường Đ (giai đoạn 1) là phù hợp với
quy định tại Điều 62 của Luật Đất đai năm 2013. Đến ngày 17/11/2022 UBND
quận N đã ban hành Quyết đinhh 3133 với nội dung thu hồi 58,64m
2
đất của hộ
gia đình ông Phạm Văn Q thuộc một phần thửa đất số 57 Trích lục địa chính số
69/2020/TL. Về thẩm quyền, Ủy ban nhân dân quận N ban hành quyết định thu
hồi đất đối với hộ ông Phạm Văn Q đúng quy định tại Điều 66 của Luật Đất
đai năm 2013.
[2.12] Về nội dung quyết định thu hồi đất: Hộ ông Q được Nhà nước
công nhận quyền sử dụng đất (sau khi đã bị thu hồi một phần vào năm 1996)
58,64m
2
. Tuy hộ ông Q, bà H cho rằng diện tích đất bị thu hồi của ông bà phải là
76,7m
2
nhưng hộ ông Q không tài liệu, chứng cứ chứng minh mình chủ sử
dụng hợp pháp của diện tích đất này. vậy, việc Ủy ban nhân dân quận N ban
hành quyết định thu hồi đất của hộ ông Q với diện tích 58,64m
2
đất là có căn cứ.
[2.13] Đối với yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thu H về việc hủy Quyết định
số 3148/QĐ-UBND ngày 17 tháng 11 năm 2022 của Ủy ban nhân dân quận N
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, Hội đồng xét xử
thấy: Ngày 17 tháng 11 năm 2022, Ủy ban nhân dân quận N ban hành Quyết
định số 3133/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của hộ ông Q; cùng ngày Ủy ban
nhân dân quận N ban hành Quyết định số 3148/QĐ-UBND về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (trong đó có phương án của hộ ông Q)
đúng thẩm quyền thời hạn ban hành quyết định theo quy định tại Điều 66
và Điều 69 của Luật Đất đai năm 2013.
[2.14] Theo Phương án bồi thường, ngày 30/12/2022 UBND quận N đã
ban hành Quyết định s3958/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung
phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Phạm Văn Q nhà, đất thu hồi
thực hiện Dự án ĐTXD hạ tầng kỹ thuật phục vụ các Dự án đầu tư cải tạo chung
trên địa bàn phường Đ (giai đoạn 1) tại phường L, quận N Theo quyết
định trên thì hộ ông Q được bồi thường với tổng số tiền 2.073.959.281 đồng;
tăng so với quyết định 3148/QĐ-UBND là 348.000.000 đồng. H cho rằng hộ
gia đình phải được nhận 100% tiền bồi thường về đất với diện tích 76,7m
2
theo Trích lục địa chính phường lập năm 2001, việc Ủy ban nhân dân quận N
xác định sai nguồn gốc đất dẫn đến việc trừ 50% tiền bồi thường về đất của gia
đình bà là không đúng.
14
Hội đồng xét xthấy: Theo nội dung đã phân tích trên nội dung trả
lời khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của các hộ dân tại quận N ban hành
kèm theo Thông báo số 673/TB-UBND ngày 18 tháng 11 năm 2022 của Ủy ban
nhân dân thành phố H thì đất của các hộ dân (trong đó hộ ông Q) đang sử
dụng nguyên là hồ cá của Hợp tác xã N1, tự vượt lập từ năm 1960 đến năm 1980
(tự ý chuyển mục đích sử dụng đất từ đất ao thành đất trước ngày 15 tháng 10
năm 1993). Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà H về nguồn gốc diện tích
đất do khai hoang, vượt lập của bà Trần Thị S. Từ những phân tích trên, đủ
sở khẳng định tại thời điểm bắt đầu sử dụng đất, N đã hành vi vi phạm
tự ý chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại Điều 22 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ. Tại thời điểm Ủy
ban nhân dân quận N thực hiện việc thu hồi đất vào năm 2022, không văn
bản, tài liệu thể hiện diện tích đất trên đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép
chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở. Tuy nhiên, hộ ông Q đã xây dựng
nhà sinh sống ổn định trên đất nhiều năm, không tranh chấp; việc sử dụng
đất phù hợp với quy hoạch. vậy, Ủy ban nhân dân quận N đã xác định, sau
khi bị Nhà nước thu hồi đất vào năm 1996, diện tích đất còn lại của hộ ông
Phạm Văn Q là 58,64m
2
thuộc trường hợp đủ điều kiện được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân quận N lập phương án
bồi thường về đất cho hộ ông Q với diện tích được bồi thường là 58,64m
2
nhưng
trừ 50% số tiền được bồi thường có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 74;
Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013, khoản 2 Điều 6 Nghi định số 45/2014/NĐ-
CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 Điều 13 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ.
[2.15] Ông Phạm Văn Q không chấp hành quyết định thu hồi đất mặc
đã được vận động, thuyết phục. vậy, ngày 28 tháng 11 năm 2022, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân quận N ban hành Quyết định s 3324/QĐ-UBND về việc
cưỡng chế thu hồi đất phợp với quy định tại điểm d khoản 3 Điều 69
khoản 3 Điều 71 của Luật Đất đai năm 2013. Việc người khởi kiện yêu cầu
tuyên bố hành vi cưỡng chế thu hồi đất cho rằng gia đình không nhận được
Quyết định cưỡng chế thu hồi đất việc Chủ tịch UBND ban hành quyết định
cưỡng chế tổ chức cưỡng chế dựa trên căn cứ các quyết định thu hồi đất
trái pháp luật. XX thấy Chủ tịch UBND quận N đã ban hành quyết định
cưỡng chế thu hồi đất 3324/QĐ-UBND ngày 28/11/2022 đối với hộ ông Phạm
Văn Q. Ngày 30/11/2022 UBND phường L đã tiến hành giao Quyết định trên
cho ông Q nhưng ông Q không nhận Quyết định không biên bản. Do vậy
UBND phường đã lập biên bản và xác nhận của UBND phường L. Do Quyết
định cưỡng chế và hành vi tổ chức cưỡng chế đảm bảo quy định của pháp
luật.
[2.16] Phía người khởi kiện cho rằng khi lập phương án bồi thường, hỗ
trợ, Ủy ban nhân dân quận N áp dụng đơn giá bồi thường chưa chính xác bởi lẽ
diện tích đất của hộ ông Q nằm hai mặt đường gồm đường N đường B
(hình thành năm 2018). vậy, đơn giá đất phải được tăng thêm 10% theo điểm
d khoản 1 Điều 11 quy định về bảng giá đất thành phố năm 2020-2024 ban hành
15
kèm theo Quyết định số 54/2019/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2019 của
Ủy ban nhân dân thành phố H. Như đã phân tích trên, diện tích đất của hộ
H được Ủy ban nhân dân quận N ra quyết định thu hồi đất và thực hiện việc bồi
thường, hỗ trợ có diện tích 58,64m
2
; đối với phần diện tích còn lại (có vị trí tiếp
giáp với phần đất bị thu hồi) được xác định là phần đất vi phạm nên không thuộc
trường hợp được áp dụng điểm d khoản 1 Điều 11 Quy định về bảng giá đất ban
hành kèm theo Quyết định số 54/2019/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2019
của Ủy ban nhân dân thành phố H.
[2.17] Người khởi kiện cho rằng khi lập phương án bồi thường, hỗ trợ, Ủy
ban nhân dân quận N chỉ hỗ trợ cho hộ gia đình bà 06 tháng tiền thuê nhà
không đúng hiện tại gia đình vẫn chưa nhận được đất tái định vẫn
đang phải đi thuê nhà ở. Hội đồng xét xử thấy: Tại khoản 3 Điều 27 Quy định
chi tiết một số nội dung về bồi thường, htrợ, tái định khi Nnước thu hồi
đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng ban hành kèm theo Quyết định số
24/2022/QĐ-UBND ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Ủy ban nhân dân thành phố
H quy định: Người bị thu hồi đất ở, nhà không còn chỗ nào khác thì
trong thời gian chờ tạo lập chỗ mới (bố trí vào khu tái định cư) được btrí
nhà ở tạm lánh hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm lánh trong thời gian 06 tháng là
30.000.000 đồng/hộ”. Như vậy, việc Ủy ban nhân dân quận N phê duyệt
phương án bồi thường, htrợ với số tiền hỗ trợ thuê nhà tạm lánh trong thời
gian tạo lập chỗ ở mới là 30.000.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bà Nguyễn Thị Thu H cũng không
đưa ra được căn cứ mới nào, do đó Hội đồng xét xử thấy a án cấp thẩm đã
phân tích, đánh giá và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà là đúng.
Hội đồng xử đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát không
chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị Thu H giữ nguyên toàn bộ quyết định
của bản án sơ thẩm.
[4]. Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Thị Thu H không
được chấp nhận nên phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường v Quốc hội 14
quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị Thu H. Giữ nguyên
quyết định của Bản án hành chính thẩm số 32/2024/HC-ST ngày 06 tháng 5
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
2. Về án phí: Nguyễn Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) án phí hành chính phúc thẩm, được đối trừ với số tiền 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng) H đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án
16
số 0000351 ngày 14 tháng 5 năm 2024 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố
Hải Phòng.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án./.
* Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND TP Hải Phòng;
- VKSND TP Hải Phòng;
- Cục THADS TP Hải Phòng;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Xuân Trọng
Tải về
Bản án số 585/2024/HC-PT Bản án số 585/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 585/2024/HC-PT Bản án số 585/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất