Bản án số 491/2024/HC-PT ngày 28/08/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 491/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 491/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 491/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 491/2024/HC-PT ngày 28/08/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 491/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | “Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính” giữa Người khởi kiện |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 491/2024/HC-PT
Ngày: 28/8/2024
Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Vũ Thị Thu Hà;
Ông Bùi Xuân Trọng;
Bà Hoàng Thị Bích Hải.
Thư ký phiên tòa: Ông Phan Nhật Phong - Thư ký Toà án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Ông Đỗ Văn Hữu, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 28 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
mở phiên tòa công khai xét xử vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số
237/2024/TLPT-HC ngày 06 tháng 6 năm 2024 về việc “Khiếu kiện Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính” do có kháng cáo của bà Nguyễn Thị M, ông Đào
Hồng T, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn K, ông
Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Minh Đ, bà Phạm Thị N, ông
Nguyễn Văn K1, bà Nguyễn Thị H1, ông Đào Hùng M1, ông Trần Văn H2, ông
Hoàng Doanh T2, bà Đào Thị N1, ông Nguyễn Đức T3 đối với Bản án hành
chính sơ thẩm số 83/2023/HC-ST ngày 26 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân
dân thành phố H3.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 7574/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng
7 năm 2024, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1950; địa chỉ: Thôn L,
xã H4, huyện T4, thành phố H3.
Đại diện theo ủy quyền của bà M: Ông Đặng Đình P, sinh năm 1999; địa
chỉ: Xóm 3, xã T5, huyện T6, tỉnh H5.
* Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T4, thành phố H3.
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn V – Phó chủ tịch; Có
đơn xin xét xử vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn 5, xã T7, huyện T4,
thành phố H3.
- Ông Đào Hồng T, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Ông Đào Hùng M1, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn 5, xã T7, huyện T4,
thành phố H3.
- Ông Trần Văn H2, sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn 5, xã T7, huyện T4,
thành phố H3.
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Ông Hoàng Doanh T2, sinh năm 1983; địa chỉ: Tòa C, KĐT M2,
phường M3, quận N2, thành phố H6.
- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Bà Vũ Thị L1, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4, thành
phố H3.
- Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Bà Nguyễn Thị L2, sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Ông Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Bà Phạm Thị N, sinh năm 1953; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
- Bà Đào Thị N1, sinh năm 1985; địa chỉ: Số 68 B, phường H7, quận H8,
thành phố H3.
- Ông Nguyễn Đức T3, sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
3
- Ông Nguyễn Văn K1, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn L, xã H4, huyện T4,
thành phố H3.
Tại phiên tòa, bà M, ông P, bà H, ông T2, ông K, ông T1, bà N và ông K1
có mặt còn các đương sự khác đều vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/6/2021 và các đơn khởi kiện sửa đổi, bổ
sung lần lượt đề các ngày 12/7/2021, 14/9/2021, 25/9/2021, 11/10/2021,
29/10/2021 cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, lời khai tại phiên
tòa, người khởi kiện là bà Nguyễn Thị M và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện là các ông Hoàng Doanh T2, Trần Đại P1 và Trần
Văn H9 thống nhất trình bày nội dung:
Bà Nguyễn Thị M yêu cầu Tòa án tuyên hủy các quyết định hành chính
sau của UBND huyện T4:
1. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2692/QĐ-XPVPHC ngày
31/5/2021 của UBND huyện T4.
2. Quyết định giải quyết khiếu nại số 3719/QĐ-UBND ngày 30/6/2021
của UBND huyện T4.
3. Quyết định cưỡng chế số 3644/QĐ-CCXP ngày 25/6/2021 của UBND
huyện T4.
4. Quyết định cưỡng chế số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 của UBND
huyện T4.
5. Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021 sửa đổi, bổ sung
Quyết định số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 của Phó Chủ tịch UBND huyện
T4 về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
Vì các lý do sau đây: Về nguồn gốc đất, đây là một phần diện tích được bà
và chồng là ông Nguyễn Văn C1; sau đó nhiều năm là cùng các con khai hoang
phục hóa từ năm 1987 và sử dụng để ở từ thời điểm đó cho đến nay. Việc khai
hoang phục hóa của gia đình bà M đã được các ông Vũ Thượng V1 và ông Phan
Văn T8 nguyên là chủ tịch UBND xã H4 xác nhận. Bất chấp quá trình sử dụng
đất của gia đình bà M ông C1 đã ổn định và lâu dài, không có tranh chấp với ai,
ngày 31/5/2021 UBND huyện T4 đã ra Quyết định số 2692/QĐ-XPVPHC để xử
phạt bà M và cáo buộc bà có hành vi chiếm đất nông nghiệp là đất trồng lúa do
UBND xã H4 quản lý tại thửa đất số 961, tờ bản đồ số 04. Căn cứ theo Điều 132
Luật Đất đai năm 2013 thì UBND cấp xã có quyền quản lý quỹ đất nông nghiệp
như sau:
“ Điều 132. Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích.
1. Căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm và nhu cầu của địa phương, mỗi xã,
phường, thị trấn được lập quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích
4
không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất
nuôi trồng thủy sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương.
Đất nông nghiệp do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại hoặc tặng cho
quyền sử dụng cho Nhà nước, đất khai hoang, đất nông nghiệp thu hồi là nguồn
để hình thành hoặc bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công
ích của xã, phường, thị trấn.
Đối với những nơi đã để lại quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích
công ích vượt quá 5% thì diện tích ngoài mức 5% được sử dụng để xây dựng
hoặc bồi thường khi sử dụng đất khác để xây dựng các công trình công cộng của
địa phương; giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nuôi
trồng thủy sản tại địa phương chưa được giao đất hoặc thiếu đất sản xuất.
2. Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường,
thị trấn để sử dụng vào các mục đích sau đây:
a) Xây dựng các công trình công cộng của xã, phường, thị trấn bao gồm
công trình văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí công cộng, y tế, giáo dục,
chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và các công trình công cộng khác theo quy định của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
b) Bồi thường cho người có đất được sử dụng để xây dựng các công trình
công cộng quy định tại điểm a khoản này;
c) Xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương.
3. Đối với diện tích đất chưa sử dụng vào các mục đích quy định tại khoản
2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp xã cho hộ gia đình, cá nhân tại địa phương
thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hình thức đấu giá để cho
thuê. Thời hạn sử dụng đất đối với mỗi lần thuê không quá 05 năm.
Tiền thu được từ việc cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào
mục đích công ích phải nộp vào ngân sách Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp xã
quản lý và chỉ được dùng cho nhu cầu công ích của xã, phường, thị trấn theo quy
định của pháp luật.
4. Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường,
thị trấn do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất quản lý, sử dụng theo quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.”
Như vậy, căn cứ vào quy định nói trên thì UBND cấp xã có quyền quản lý
quỹ đất nông nghiệp tại địa phương nhưng không được vượt quá 5% tổng diện
tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản để
phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương và việc quản lý, sử dụng phải
theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Theo đó, về nguyên
tắc UBND xã H4 phải quản lý đối với ít nhất hai loại đối tượng văn bản thể hiện
trách nhiệm quản lý Nhà nước về đất đai của cấp xã, phường là:
5
- Tài liệu thể hiện ranh giới, lịch sử xác lập, vị trí quỹ đất 5% do cấp xã đề
xuất theo Điều 132 Luật Đất đai năm 2013.
- Tài liệu thể hiện phê duyệt của UBND huyện T4 đối với quỹ đất 5%
theo Điều 132 Luật Đất đai năm 2013.
Tuy đã nhiều lần yêu cầu, nhưng UBND xã H4 đến nay vẫn không cung
cấp được tài liệu về việc quản lý quỹ đất 5% là thuộc những vị trí nào và cũng
không chứng minh được phần đất của bà Nguyễn Thị M và chồng là ông
Nguyễn Văn C1 khai hoang phục hóa có nằm trong diện tích 5% thuộc quyền
quản lý của UBND xã H4 hay không. Trong suốt quá trình khai hoang phục hóa
và sử dụng đất tại khu vực Đ1 của gia đình bà M ông C1 thì đều không có bất kỳ
cơ quan nào nhắc nhở, xử phạt về hành vi lấn chiếm đất nông nghiệp hay sử
dụng đất trái mục đích. Từ đây người khởi kiện cho rằng UBND huyện T4 đã
không chứng minh được đối với người bị xử phạt về việc bà M có hành vi vi
phạm đất đai và không cung cấp được cho người bị xử phạt các văn bản chứng
minh chính xác đối tượng bị cho là vi phạm thuộc quyền quản lý của UBND xã
H4 nên dẫn đến việc UBND huyện T4 ban hành Quyết định số 2692/QĐ-
XPVPHC ngày 31/5/2021 xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị M
về hành vi chiếm đất nông nghiệp là đất trồng lúa do UBND xã H4 quản lý tại
thửa đất số 961, tờ bản đồ số 04, khu Đ1 xã H4 là hoàn toàn sai và xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của bà M. Từ việc ban hành Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính không có căn cứ, dẫn đến việc UBND huyện T4 lần lượt
ban hành các Quyết định cưỡng chế số 3644/QĐ-CCXP ngày 25/6/2021, Quyết
định cưỡng chế số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 (thay thế Quyết định số
3644), Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021 (sửa đổi, bổ sung
Quyết định số 6486) và Quyết định giải quyết khiếu nại số 3719/QĐ-UBND
ngày 30/6/2021 là hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ.
Quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện và người bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị kiện là UBND huyện T4 thống nhất trình bày như sau:
Qua kiểm tra, xem xét các hồ sơ lưu trữ liên quan đến các quyết định hành
chính nêu trên mà bà Nguyễn Thị M đang khởi kiện tại Tòa án thì người bị kiện
là UBND huyện T4 trình bày như sau:
* Về hồ sơ quản lý đất đai:
Theo hồ sơ quản lý đất công điền hiện lưu trữ tại UBND xã H4 thể hiện:
Việc sử dụng diện tích đất đấu thầu của hộ bà Nguyễn Thị M theo từng giai
đoạn như sau: Năm 2003, diện tích 1.861m²; năm 2009, diện tích 1.674m²; năm
2012, diện tích 600m²; năm 2020 diện tích 600m². Như vậy, đến năm 2020 hộ
bà Nguyễn Thị M chỉ còn quản lý, sử dụng diện tích đất đấu thầu là 600m².
Toàn bộ diện tích 600m² đất nêu trên mà hộ bà Nguyễn Thị M sử dụng đã được
Nhà nước thu hồi, bồi thường, hỗ trợ thực hiện Dự án.
6
Theo sổ mục kê năm 1978 và bản đồ giải thửa 299 hiện đang lưu trữ tại
UBND xã H4, thể hiện hộ bà Nguyễn Thị M (chồng là ông Nguyễn Văn C1)
đang sử dụng đất tại thửa số 961, tờ bản đồ số 04, có nguồn gốc là đất nông
nghiệp 1 lúa. Việc bà M trình bày vợ chồng bà cùng các con đã khai hoang phục
hóa, sử dụng đất ổn định lâu dài từ năm 1987, đồng thời xuất trình 02 bản photo
đơn xin xác nhận diện tích đất khai hoang phục hóa, tuy nhiên diện tích sử dụng
đất tại 02 đơn này là khác nhau (01 bản diện tích là 2.560m²; 01 bản diện tích là
560m²). Do vậy, không đủ cơ sở xác định diện tích đất thực tế do hộ bà Nguyễn
Thị M khai hoang sử dụng. Mặt khác, theo mảnh trích đo địa chính tỷ lệ 1/1000
do Công ty Cổ phần tư vấn thiết kế xây dựng H3 lập, được Sở Tài nguyên và
Môi trường thẩm định ngày 11/4/2017 để thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng thực hiện Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị
mới B1 thể hiện vị trí khu đất bà Nguyễn Thị M sử dụng vi phạm là đất trống do
UBND xã H4 quản lý, nằm ngoài diện tích đất của bà M bị thu hồi để thực hiện
Dự án.
Như vậy, vị trí đất bà Nguyễn Thị M tự ý sử dụng đất để làm ngõ đi và
xếp gạch papanh thành hình móng nhà tại khu vực Đ1 là đất nông nghiệp trồng
lúa do UBND xã H4 quản lý. Việc bà M kiến nghị cho rằng vị trí đất nêu trên do
gia đình bà M khai hoang, sử dụng từ năm 1987 đến nay là không có cơ sở.
* Về việc xử lý vi phạm hành chính về đất đai:
- Các ngày 16/5/2021, 21/5/2021 và 22/5/2021, UBND xã H4 đã lập biên
bản kiểm tra việc sử dụng đất của bà Nguyễn Thị M tại khu vực Đ1 thì phát hiện
bà Nguyễn Thị M tự ý xếp gạch làm ngõ đi và thành hình móng nhà trên diện
tích đất nông nghiệp tại thửa số 961, tờ bản đồ số 04 do UBND xã H4 quản lý,
nằm trong chỉ giới thu hồi thực hiện Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật
Khu đô thị mới B1.
- Ngày 26/5/2021, UBND xã H4 lập biên bản vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai đối với bà Nguyễn Thị M về hành vi chiếm đất nông nghiệp và
xây dựng công trình trên đất vi phạm theo điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị định số
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ. Vị trí đất vi phạm tại thửa số
961, tờ bản đồ số 04, cụ thể:
+ Ngày 16/5/2021, bà Nguyễn Thị M đã làm ngõ đi diện tích khoảng
70m², hai bên lối đi xây gạch papanh, mặt lối đi được trải bằng đất mạt.
+ Ngày 21/5/2021, bà Nguyễn Thị M tiến hành xếp gạch papanh quây
thành hình móng nhà tại 02 vị trí, mỗi vị trí có diện tích 25m², xếp từ 3 đến 4
hàng gạch chưa chít mạch vữa.
+ Ngày 22/5/2021, bà Nguyễn Thị M tiếp tục xếp gạch papanh quây thành
hình móng nhà tại 01 vị trí có diện tích 25m², xếp 3 hàng gạch, chưa chít mạch
vữa.
7
- Ngày 27/5/2021, UBND xã H4 có Tờ trình số 10/TTr-UBND đề nghị
UBND huyện T4 ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai.
- Ngày 31/5/2021, Phó Chủ tịch UBND huyện T4 ban hành Quyết định số
2692/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị M đã
thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, cụ thể: Chiếm đất
nông nghiệp là đất trồng lúa do Ủy ban nhân dân xã H4 quản lý tại thửa đất số
961, tờ bản đồ số 04, khu Đ1, xã H4. Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền, với
mức phạt tiền là 4.000.000 đồng. Các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi
phục tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm, buộc trả lại đất đã chiếm.
- Bà Nguyễn Thị M đã không chấp hành thực hiện Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 2692/QĐ-XPVPHC ngày 31/5/2021 của Ủy ban nhân dân
huyện T4. Ngày 07/6/2021, bà Nguyễn Thị M có đơn khiếu nại Quyết định số
2692/QĐ-XPVPHC ngày 31/5/2021. Ngày 10/6/2021, Ủy ban nhân dân huyện
T4 đã ban hành Văn bản số 263/TB-UBND về việc thụ lý giải quyết khiếu nại
lần đầu. Ngày 10/6/2021, UBND huyện T4 đã ban hành Quyết định số
3099/QĐ-UBND về việc xác minh nội dung khiếu nại của bà Nguyễn Thị M.
Ngày 30/6/2021, UBND huyện T4 đã ban hành Quyết định số 3719/QĐ-UBND
về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị M, quyết định bác đơn của bà
Nguyễn Thị M khiếu nại Quyết định số 2692/QĐ-XPVPHC ngày 31/5/2021 của
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện về việc xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai. Bà Nguyễn Thị M có trách nhiệm chấp hành Quyết định số
2692/QĐ-XPVPHC ngày 31/5/2021 của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
T4 về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
* Về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả:
Ủy ban nhân dân huyện T4 đã ban hành Quyết định số 3644/QĐ-CCXP
ngày 25/6/2021, Quyết định số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 thay thế Quyết
định số 3644/QĐ-CCXP; Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021 sửa
đổi, bổ sung Quyết định số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021; Quyết định số
7806/QĐ-CCXP ngày 25/10/2021 thay thế Quyết định số 6486/QĐ-CCXP và
Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP, về việc cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp
khắc phục hậu quả đối với bà Nguyễn Thị M phải thực hiện biện pháp khắc phục
hậu quả do có hành vi vi phạm hành chính: Chiếm đất nông nghiệp là đất trồng
lúa do Ủy ban nhân dân xã H4 quản lý tại thửa đất số 961, tờ bản đồ 04 khu Đ1,
xã H4. Vi phạm quy định tại điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-
CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai. Hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra cần được khắc phục
là: Làm thay đổi hiện trạng khu đất, dẫn tới không thể sử dụng đất vào mục đích
ban đầu. Biện pháp khắc phục hậu quả buộc phải thực hiện: Buộc bà Nguyễn
Thị M tháo dỡ công trình vi phạm, khôi phục lại tình trạng ban đầu thửa đất
trước khi vi phạm; buộc trả lại đất đã lấn chiếm.
8
Từ những căn cứ nêu trên, quan điểm của UBND huyện T4 là việc ban
hành các Quyết định số 2692/QĐ-XPVPHC ngày 31/5/2021 xử phạt vi phạm
hành chính; Quyết định số 3719/QĐ-UBND ngày 30/6/2021 về việc giải quyết
khiếu nại; Quyết định số 3644/QĐ-CCXP ngày 25/6/2021; Quyết định số
6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021; Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày
24/9/2021 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021;
Quyết định số 7806/QĐ-CCXP ngày 25/10/2021 cưỡng chế buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả đối với bà Nguyễn Thị M của UBND huyện T4 là có
căn cứ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Do đó,
UBND huyện T4 đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H3 không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M về việc khiếu kiện hủy các quyết định hành
chính nêu trên.
Quá trình giải quyết vụ án, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
lần lượt là: Các ông, bà Nguyễn Thị H1, Đào Hồng T, Đào Hùng M1, Trần Văn
H2, Nguyễn Thị H, Hoàng Doanh T2, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K, Vũ Thị
L1, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị D1, Nguyễn Thị L2, Nguyễn Minh Đ, Phạm
Thị N, Đào Thị N1, Nguyễn Đức T3, Nguyễn Văn K1 có đơn yêu cầu độc lập đề
nghị Tòa án công nhận việc mua bán, cho tặng các diện tích đất giữa các ông, bà
với bà Nguyễn Thị M là có hiệu lực pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 83/2023/HC-ST ngày 26 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân thành phố H3 đã quyết định:
- Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 2 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều
193, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; các Điều 38, 52, 54, 57, 58, 66,
67, 68, 73, 86, 87 Luật Xử lý vi phạm hành chính; khoản 1 Điều 100 Luật Đất
đai năm 2013, Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; các Điều 18, 27, 28, 29, 31, 32, 33
Luật Khiếu nại; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M về việc yêu cầu hủy các
quyết định hành chính sau:
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2692/QĐ-XPVPHC ngày
31/5/2021 của UBND huyện T4.
- Quyết định giải quyết khiếu nại số 3719/QĐ-UBND ngày 30/6/2021 của
UBND huyện T4.
- Quyết định cưỡng chế số 3644/QĐ-CCXP ngày 25/6/2021 của UBND
huyện T4.
- Quyết định cưỡng chế số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 của UBND
huyện T4.
9
- Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021 sửa đổi, bổ sung
Quyết định số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 của UBND huyện T4.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị M, ông Đào Hồng T, bà Nguyễn
Thị H, ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn K, ông Nguyễn Văn T1, bà
Nguyễn Thị D1, ông Nguyễn Minh Đ, bà Phạm Thị N, ông Nguyễn Văn K1, bà
Nguyễn Thị H1, ông Đào Hùng M1, ông Trần Văn H2, ông Hoàng Doanh T2,
bà Đào Thị N1, ông Nguyễn Đức T3 có đơn kháng cáo toàn bộ và đề nghị hủy
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện;
các đương sự giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích tài
liệu có trong hồ sơ có ý kiến thể hiện: Tòa án sơ thẩm bác các yêu cầu khởi kiện
của người khởi kiện là đúng quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm, phía người
kháng cáo không xuất trình được tài liệu mới bảo vệ cho quan điểm của mình
nên không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật Tố
tụng hành chính, không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện và những
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự, ý
kiến của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận và nghị án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Ngày 30/6/2021, bà Nguyễn Thị M có đơn khởi kiện vụ án hành
chính và sau đó có các đơn khởi kiện bổ sumg đến Tòa án nhân dân thành phố
H3 yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2692/QĐ-XPVPHC
ngày 31/5/2021 của UBND huyện T4; Quyết định giải quyết khiếu nại số
3719/QĐ-UBND ngày 30/6/2021 của UBND huyện T4; Quyết định số
3644/QĐ-CCXP ngày 25/6/2021 của UBND huyện T4; Quyết định cưỡng chế
số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 của UBND huyện T4; Quyết định số
6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021 của UBND huyện T4. Tòa án nhân dân
thành phố H3 thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền và trong thời hiệu khởi kiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 2, khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành
chính.
[1.2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện là UBND huyện T4, đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan; Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
kháng cáo là các ông, bà Nguyễn Thị H1, Nguyễn Văn K1 (con bà M), ông Đào
10
Hùng M1, Đào Hồng T, Trần Văn H2, Nguyễn Văn K, Vũ Thị L1, Hoàng Thị
Diện, Nguyễn Thị L2, Đào Thị N1, Nguyễn Đức T3 vắng mặt. Xét thấy đây là
phiên tòa mở lần thứ 3, các đương sự kháng cáo đã được triệu tập nhưng vắng
mặt, mặt khác nội dung kháng cáo của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan tương đồng nhau. Do đó Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các
đương sự trên.
[2]. Bản án sơ thẩm xác định về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, về
quyết định hành chính liên quan, về tư cách những người tham gia tố tụng trong vụ
án đúng quy định pháp luật. Việc chứng minh, thu thập chứng cứ đã được thực hiện
đầy đủ và đúng theo quy định tại chương VI Luật Tố tụng hành chính. Đơn kháng
cáo của người khởi kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hạn
luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3]. Xét kháng cáo của người khởi kiện, Hội đồng xét xử thấy:
[3.1] Về nguồn gốc của thửa đất 961, tờ bản đồ số 04 tại khu vực Đ1.
Tại dòng số 5, trang số 42 của sổ mục kê năm 1978 lưu tại UBND xã H4
và đối chiếu bản đồ giải thửa 299 thể hiện: Thửa số 961 (số thửa cũ là 155), tờ
bản đồ số 04, diện tích là 5 sào 7 thước (tức 1.974m²), địa danh xứ đồng Đ1, loại
đất sử dụng là đất 1 lúa, không ghi tên chủ quản lý cũ và không có đăng ký đính
chính, biến động gì khác. Bà Nguyễn Thị M trình bày vợ chồng bà và các con
khai hoang phục hóa diện tích đất nêu trên và sử dụng ổn định từ năm 1987 đến
nay, không có tranh chấp với ai và không bị cơ quan nào xử phạt. Tuy nhiên, bà
M không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định trao quyền sử dụng
đất. Bà M xuất trình 02 bản photo đơn xin xác nhận của bà Nguyễn Thị M và
ông Nguyễn Văn C1 đề nghị xác nhận nội dung: “Năm 1978, gia đình tôi xuống
ở khu nghĩa địa để an cư lạc nghiệp tới năm 1987, gia đình tôi đã khai hoang
phục hóa một số diện tích ở khu Đ1 để ở và trồng hoa màu, để làm nhà ở …”. 02
đơn xin xác nhận đều không đề ngày tháng năm, có ông Vũ Thượng V1 và ông
Phạm Văn Tĩnh chứng thực nội dung như trong đơn đã trình bày là sự thật, và có
Chủ tịch Đồng Xuân Chuyên xác nhận ông Vũ Thượng V1 và Phạm Văn Tĩnh
nguyên là chủ tịch xã và chữ ký của các ông là đúng sự thực, ngoài ra không xác
nhận nội dung gì khác. Căn cứ khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013
quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử
dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất, Điều 18 của Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai thì bà M không thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
[3.2]. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá tính hợp pháp của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện, theo đó:
11
[3.2.1]. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2692/QĐ-XPVPHC
ngày 31/5/2021 của UBND huyện T4; Quyết định số 3644/QĐ-CCXP ngày
25/6/2021, Quyết định cưỡng chế số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 và Quyết
định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021 của UBND huyện T4:
Theo mảnh trích đo địa chính tỷ lệ 1/1000 do Công ty Cổ phần tư vấn
thiết kế xây dựng H3 lập, được Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm định ngày
11/4/2017 để thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thực hiện Dự
án đầu tư xây dựng Hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị mới B1 thể hiện vị trí thửa đất
số 961, tờ bản đồ số 04 tương ứng với thửa đất số 219, tờ bản đồ số 06, trên đất
không có công trình xây dựng.
Ngày 16/5/2021, UBND xã H4 lập biên bản kiểm tra thực địa mặt bằng
khu đất Đ1, bà Nguyễn Thị M có hành vi làm ngõ đi, rải đá mạt, xây bờ gạch
papanh trên thửa đất số 961, tờ bản đồ số 04.
Ngày 21/5/2021, UBND xã H4 lập biên bản kiểm tra thực địa mặt bằng
khu đất Đ1, bà Nguyễn Thị M có hành vi xếp gạch papanh quây từ 1 đến 2 hàng
(chưa chít mạch vữa) tại 02 vị trí thuộc thửa đất số 961, tờ bản đồ số 04.
Ngày 22/5/2021, UBND xã H4 lập biên bản kiểm tra thực địa mặt bằng
khu đất Đ1, bà Nguyễn Thị M tiếp tục xếp gạch papanh quây tại vị trí số 1, số 2
(đã xếp trước đó ngày 21/5/2021) lên 3 đến 4 hàng. Tiếp tục xếp gạch papanh
quây thêm 01 vị trí mới tạo thành hình móng, hiện đã xếp được 3 hàng.
Ngày 26/5/2021, UBND xã H4 lập biên bản vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai đối với bà Nguyễn Thị M đã có hành vi chiếm đất nông nghiệp
và xây dựng công trình trên đất tại thửa số 961, tờ bản đồ 04, tuy nhiên bà M
không ký tên vào biên bản. Ngày 27/5/2021, UBND xã H4 lập biên bản giao
nhận biên bản vi phạm hành chính cho bà Nguyễn Thị M, tuy nhiên bà M đọc
nội dung biên bản song không nhận. Cùng ngày 27/5/2021, UBND xã H4 có Tờ
trình số 10/Ttr-UBND về việc đề nghị UBND huyện T4 ban hành Quyết định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với hành vi vi phạm của bà
Nguyễn Thị M và gửi Báo cáo số 196/BC-UBND cho UBND huyện T4 để xem
xét theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Nguyễn Thị M và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là ông Hoàng Doanh T2 đều cho rằng việc UBND huyện T4 đã ban
hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là không đúng đối tượng vì UBND
huyện T4 không chứng minh được bà Nguyễn Thị M là người đã trực tiếp thực
hiện hành vi vi phạm như UBND xã H4 đã lập biên bản. Tuy nhiên, bà M cũng
đồng thời xác nhận bà là người khai hoang phục hóa, đang sử dụng thửa đất số
961 và đã thực hiện việc chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất cho một số
cá nhân song chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc
chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất này. Bà M được giao nhận quyết
định xử phạt vi phạm hành chính số 2692/QĐ-XPVPHC ngày 31/5/2021. Ngày
12
07/6/2021, UBND huyện T4 nhận được đơn khiếu nại đối với Quyết định số
2692 của bà Nguyễn Thị M. Đơn khiếu nại không đề cập đến nội dung về chủ
thể thực hiện hành vi và cụ thể các hành vi đã thực hiện như ghi nhận tại các
biên bản kiểm tra thực địa và biên bản vi phạm hành chính do UBND xã H4 lập.
Căn cứ vào Quyết định số 6845/QĐ-UBND ngày 24/9/2020 của Chủ tịch
UBND huyện T4 về việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, ngày
31/5/2021, Phó Chủ tịch UBND huyện T4 đã ban hành Quyết định số 2692/QĐ-
XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với bà Nguyễn
Thị M là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định tại các Điều 38, 52,
54, 58, 66, 67, 68 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Do bà Nguyễn Thị M không tự nguyện thi hành Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính nên UBND huyện T4 đã ban hành Quyết định số 3644/QĐ-
CCXP ngày 25/6/2021 về cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu
quả, Quyết định số 6486/QĐ-CCXP ngày 10/9/2021 (thay thế Quyết định số
3644/QĐ-CCXP) và Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021 (sửa
đổi, bổ sung Quyết định số 6486/QĐ-CCXP) của UBND huyện T4 là phù hợp
với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Ngày 25/10/2021, UBND
huyện T4 ban hành Quyết định số 7806/QĐ-CCXP cưỡng chế buộc thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả, thay thế Quyết định số 6486/QĐ-CCXP ngày
10/9/2021 và Quyết định số 6914/QĐ-SĐCCXP ngày 24/9/2021. Mặc dù người
khởi kiện không khởi kiện đối với Quyết định số 7806, song đây là quyết định
cuối cùng về cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày ký, thay thế cho các Quyết định cưỡng chế số 6486 và
Quyết định cưỡng chế số 6914 nên căn cứ Điều 193 của Luật Tố tụng hành
chính, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về trình tự, thủ tục ban hành các quyết
định cưỡng chế nêu trên là đảm bảo theo đúng quy định tại Điều 18, 28, 86, 87
Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[3.2.2] Về thẩm quyền và trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số
3719/QĐ-UBND ngày 30/6/2021 về việc giải quyết khiếu nại của UBND huyện
T4:
Ngày 10/6/2021, UBND huyện T4 thụ lý đơn khiếu nại của bà Nguyễn
Thị M khiếu nại đối với Quyết định số 2692/QĐ-XPVPHC. Sau khi thụ lý đơn
khiếu nại, theo quy định của Luật Khiếu nại, UBND huyện T4 đã tiến hành các
bước giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu và đảm
bảo trong thời hạn quy định. Cụ thể, ngày 10/6/2021, UBND huyện T4 ra Quyết
định về việc xác minh nội dung khiếu nại. Ngày 28/6/2021, Đoàn xác minh đã
lập báo cáo kết quả kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại của bà Nguyễn Thị
M. Ngày 30/6/2021, UBND huyện T4 ban hành Quyết định số 3719/QĐ-UBND
về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị M. Mặc dù việc giải quyết khiếu
nại của UBND huyện T4 tuân thủ về thời hạn, thủ tục, song UBND huyện T4
13
không tổ chức đối thoại theo Điều 30 của Luật Khiếu nại là còn thiếu sót, cần
phải được khắc phục.
[4]. Xét kháng cáo của những người có quyền lợi liên quan là các ông, bà
Nguyễn Thị H1, Đào Hồng T, Đào Hùng M1, Trần Văn H2, Nguyễn Thị H,
Hoàng Doanh T2, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị
D1, Nguyễn Minh Đ, Phạm Thị N, Đào Thị N1, Nguyễn Đức T3, Nguyễn Văn
K1 đề nghị hủy bản án sơ thẩm với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm đã không triệu tập
người làm chứng, tuyên án thiếu cơ sở; không xem xét giải quyết yêu cầu công
nhận việc mua bán quyền sử dụng đất giữa ông, bà với bà Nguyễn Thị M là có
hiệu lực pháp luật.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Nguyễn Thị
H1, Đào Hồng T, Đào Hùng M1, Trần Văn H2, Nguyễn Thị H, Hoàng Doanh
T2, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K, Vũ Thị L1, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị
D1, Nguyễn Thị L2, Nguyễn Minh Đ, Phạm Thị N, Đào Thị N1, Nguyễn Đức
T3, Nguyễn Văn K1 có đơn đề nghị Tòa án công nhận việc mua bán quyền sử
dụng đất giữa ông, bà với bà Nguyễn Thị M là có hiệu lực pháp luật.
Xét thấy: bà Nguyễn Thị M có đơn khởi kiện quyết định xử phạt vi phạm
hành chính và các quyết định cưỡng chế liên quan, Quyết định giải quyết khiếu
nại của UBND huyện T4. Các đương sự là ông, bà Nguyễn Thị H1, Đào Hồng
T, Đào Hùng M1, Trần Văn H2, Nguyễn Thị H, Hoàng Doanh T2, Nguyễn Văn
D, Nguyễn Văn K, Vũ Thị L1, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị D1, Nguyễn Thị
L2, Nguyễn Minh Đ, Phạm Thị N, Đào Thị N1, Nguyễn Đức T3, Nguyễn Văn
K1 không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết định xử phạt vi phạm hành
chính mà UBND huyện T4 đã áp dụng với bà Nguyễn Thị M. Mặt khác, quá
trình giải quyết vụ án, các ông bà có tên nêu trên có đơn khiếu nại và đã được trả
lời về việc yêu cầu công nhận giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa các hộ dân
với bà M là quan hệ pháp luật dân sự, không thuộc thẩm quyền giải quyết tại vụ
án hành chính. Các hộ dân và bà M có quyền khởi kiện vụ án dân sự khác để yêu
cầu xem xét các giao dịch giữa họ theo thủ tục tố tụng dân sự. Do đó Tòa án cấp
sơ thẩm không xem xét giải quyết các yêu cầu công nhận việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị M và các ông, bà có tên trên trong vụ án
này là có căn cứ.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M và yêu cầu của những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, phía người
khởi kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không xuất trình
thêm được tài liệu gì mới để làm căn cứ cho nội dung kháng cáo nên không có
cơ sở chấp nhận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị
không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[5]. Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo
phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định. Do bà Nguyễn Thị M và
14
ông Nguyễn Minh Đ là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên được
miễn án phí hành chính phúc thẩm.
Từ nhận định trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện bà Nguyễn Thị M và những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Đào Hồng T, Nguyễn Thị H,
Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị D1, Nguyễn
Minh Đ, Phạm Thị N, Nguyễn Văn K1, Nguyễn Thị H1, Đào Hùng M1, Trần
Văn H2, Hoàng Doanh T2, Đào Thị N1, Nguyễn Đức T3; giữ nguyên Bản án
hành chính sơ thẩm số 83/2024/HC-ST ngày 26/09/2023 của Tòa án nhân dân
thành phố H3.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị M và ông Nguyễn Minh Đ được miễn án phí
hành chính phúc thẩm; các ông, bà Nguyễn Thị H1, Đào Hồng T, Đào Hùng
M1, Trần Văn H2, Nguyễn Thị H, Hoàng Doanh T2, Nguyễn Văn D, Nguyễn
Văn K, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị D1, Phạm Thị N, Đào Thị N1, Nguyễn
Đức T3, Nguyễn Văn K1 mỗi người phải chịu 300.000đ án phí hành chính phúc
thẩm, được đối trừ số tiền 300.000đ các ông bà có tên trên đã nộp tại các Biên
lai thu số 0000287 ngày 13/11/2023; 0000263, 0000264 ngày 16/11/2023;
0000285, 0000286, 0000284 ngày 10/11/2023; 0000280 ngày 06/11/2023;
0000246, 0000247, 0000248, 0000249, 0000250, 0000451, 0000452 ngày
09/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố H3.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án.
* Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND TP H3;
- VKSND TP H3;
- Cục THADS TP H3;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Vũ Thị Thu Hà
Tải về
Bản án số 491/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 491/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm