Bản án số 160/2022/DS-PT ngày 29/07/2022 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 160/2022/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 160/2022/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 160/2022/DS-PT ngày 29/07/2022 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 160/2022/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/07/2022 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông T1 yêu cầu Tòa án xác định ranh mốc giới đất có tứ cận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
——————————
Bản án số: 160/2022/DS-PT
Ngày 29-7-2022
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất;
yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật và kiện đòi tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Văn Tâm
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền
Bà Ngô Thị Bích Diệp
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Anh Đào - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 22 và 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai
vụ án dân sự thụ lý số 115/2022/TLPT-
DS ngày 04 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu
chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật và kiện đòi tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2021/DS-ST ngày 01/12/2021 của Tòa án
nhân dân thành phố T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2022/QĐXXPT-DS ngày 02
tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 127/2022/QĐ- PT ngày 17
tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Văn T1, sinh năm 1962; địa chỉ: Số nhà 40/5, khu
phố 1, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Bà Bùi Thị T2, sinh năm 1965; địa chỉ: Số nhà 902, Đại lộ B, tổ
4, khu phố 1, phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người làm chứng: Ông Bùi Văn Đ1, sinh năm 1954; địa chỉ: Ấp C, xã L,
huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Bùi Văn T1 và bị đơn bà Bùi Thị T2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 01 năm 2021, đơn khởi kiện bổ sung
ngày 01 tháng 02 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông
Bùi Văn T1 trình bày:
2
Ông T1 và bà Bùi Thị T2 là hai anh em ruột; cha mẹ của ông T1 và bà T2
là cụ Bùi Văn Đ1 và cụ Đoàn Thị M. Khi còn sống, cụ Đ1 và cụ M có cho ông
T1 02 phần đất, cụ thể như sau:
+ Phần đất thứ nhất: Diện tích 2.395,1m
2
,
thuộc thửa đất số 1650, tờ bản đồ
số 4 tại phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số H51900 do Cơ quan U thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình
Dương cấp ngày 24/6/2009 mang tên ông Bùi Văn T1.
+ Phần đất thứ hai: Diện tích 719,7m
2
, thuộc thửa đất số U, tờ bản đồ số I,
tại phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương, theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BU791086 do Cơ quan U thành phố T, tỉnh Bình Dương cấp ngày
21/10/2014 mang tên ông Bùi Văn T1.
Sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp 02 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì ông T1 có gửi cha mẹ giữ giùm; đến khi cha mẹ qua đời
và lúc tình cảm anh em còn hòa thuận thì ông T1 tiếp tục gửi bà Bùi Thị T2 giữ
giùm. Do cần sử dụng đến 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này nên ông
T1 yêu cầu bà T2 trả lại nhưng bà T2 không thực hiện.
Ngoài ra, trên phần đất 719,7m
2
, thuộc thửa đất số U, tờ bản đồ số I, tại
phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương có nhà từ đường của cha mẹ xây dựng
để lại và giáp ranh với nhà từ đường là đất của bà Bùi Thị T2. Khi ông tiến hành
xây dựng hàng rào làm ranh mốc giữa hai nhà trên phần đất này thì bà T2 ngăn
cản và yêu cầu ông muốn xây dựng hàng rào phải dời qua đất của mình cách
ranh đất với bà T2 là 0,5m. Ngoài ra, trên phần đất thuộc thửa đất số 637 này bà
Bùi Thị T2 còn tiến hành xây dựng lấn sang đất của ông diện tích khoảng 11m
2
(đo đạc thực tế là 11,8m
2
).
Tại phiên tòa phúc thẩm ông T1 yêu cầu Tòa án xác định ranh mốc giới đất
có tứ cận: Phía Tây giáp nhà bà T2 ngang phía sau nhà ông T1 rộng 0,41m; phía
Nam giáp cột nhà phía sau của ông T1 ngang rộng 0,41 làm ranh mốc giới đất
giữa bà T2 và ông T1 được xác định 01 đường cong dài 16,96m là cột mốc để
ông T1 làm ranh mốc giới đất giữa hai bên và yêu cầu bà T2 chấm dứt hành vi
cản trở ông T1 xây dựng tường ranh giới đất; ông yêu cầu bà Bùi Thị T2 phải
tháo dỡ các công trình gắn liền với đất để trả lại cho ông Bùi Văn T1 phần đất
có diện tích khoảng 11m
2
(qua đo đạc thực tế là 11,8m
2
); phần đất có tứ cận như
sau: Phía Tây giáp đất bà Bùi Thị T2, phía Đông giáp đất bà Bùi Thị T2; phía
Nam giáp đất ông Bùi Văn T1, phía Bắc giáp đất bà Bùi Thị C1.
Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thành phố T cấp cho
ông T1, hiện nay bà T2 đã làm mất không còn, nên ông T1 không yêu cầu bà T2
trả lại và tự nguyện làm đơn gửi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xin cấp
phó bản lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Đối với yêu cầu độc lập của bà T2 buộc ông T1 phải trả cho bà T2
90.000.000 đồng, ông T1 không đồng ý.
- Theo đơn yêu cầu phản tố và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà
Bùi Thị T2 trình bày:

3
Đối với ranh mốc giới đất nhà bà T2 với ranh đất nhà ông T1, bà T2 tự
nguyện thỏa thuận xác định, phía Tây giáp nhà bà T2, phía sau nhà ngang rộng
0,41m đất; phía Nam giáp cột nhà phía sau của ông T1 ngang rộng 0,41m làm
ranh mốc giới đất giữa bà T2 và ông T1 được xác định bằng 01 đường thẳng dài
16,96m là cột mốc được ông T1 và bà T2 thống nhất có chiều ngang rộng 2,20m
tính từ ranh nhà của bà T2 sang phần sân của ông T1 làm ranh mốc giới đất giữa
ông T1 và bà T2, ông T1 tự xây tường ranh đất theo đường cong bà T2 không
chấp nhận.
Bà Bùi Thị T2 không chấp nhận tháo dỡ các công trình gắn liền với đất để
trả lại cho ông Bùi Văn T1 phần đất có diện tích khoảng 11m
2
(qua đo đạc thực
tế là 11,8m
2
); phần đất có tứ cận như sau: Phía Tây giáp đất bà Bùi Thị T2, phía
Đông giáp đất bà Bùi Thị T2; phía Nam giáp đất ông Bùi Văn T1, phía Bắc giáp
đất bà Bùi Thị C1 trong trường hợp ông T1 không trả cho bà T2 số tiền
90.000.000 đồng giá trị bộ bàn ghế (gồm 01 bàn dài và 08 ghế dựa).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2021/DS-ST ngày 01/12/2021 của Tòa án
nhân dân thành phố T đã quyết định:
- Căn cứ khoản 2, 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1
Điều 39; các Điều 147, 157, 218, 227, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự;
- Căn cứ các Điều 105, 164, 166, 169, 175, 176 của Bộ luật Dân sự; Điều
166 của Luật Đất đai; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn ông Bùi Văn T1 về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
và kiện đòi tài sản” đối với bị đơn bà Bùi Thị T2.
1.1. Bà Bùi Thị T2 có trách nhiệm tháo dỡ toàn bộ tài sản để trả lại cho ông
Bùi Văn T1 quyền sử dụng đất có diện tích là 11,8m
2
, đất có tứ cận:
- Phía Đông giáp đất ông Bùi Văn T1;
- Phía Tây giáp đất bà Bùi Thị T2 dài 3,83m;
- Phía Nam giáp đất ông Bùi Văn T1 dài 3,65m;
- Phía Bắc giáp đất bà Bùi Thị C1 dài 0,77m và 4,14m.
(Có sơ đồ kèm theo).
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn T1 về việc buộc
bà Bùi Thị T2 chấm dứt hành vi cản trở ông T1 xây dựng hàng rào làm ranh giới
giữa đất ông Bùi Văn T1 và đất bà Bùi Thị T2 trên diện tích đất tranh chấp là
23,5m
2
tại phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

4
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Bùi Văn T1 và bà Bùi Thị T2, xác định
ranh đất giữa ông Bùi Văn T1 và bà Bùi Thị T2 có cạnh phía Đông dài 16,96m,
phía Nam dài 2,2m theo Sơ đồ hình vẽ diện tích đất tranh chấp là 23,5m
2
(có sơ
đồ kèm theo).
1.3. Buộc bà Bùi Thị T2 phải trả cho ông Bùi Văn T1 bản chính Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: H51900 do Cơ quan U thị xã T, tỉnh
Bình Dương cấp ngày 24/6/2009 mang tên ông Bùi Văn T1 và bản chính Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 791086 (số vào sổ cấp giấy chứng nhận:
CH04085) do Cơ quan U thành phố T, tỉnh Bình Dương cấp ngày 21/10/2014
mang tên ông Bùi Văn T1.
Sau khi có yêu cầu thi hành án mà bà Bùi Thị T2 vẫn không trả lại bản
chính 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho ông Bùi Văn T1 thì ông
Bùi Văn T1 được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được
cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn bà Bùi Thị T2 về việc
buộc ông Bùi Văn T1 phải trả cho bà Bùi Thị T2 số tiền 90.000.000 đồng (đây
là giá trị 01 bộ bàn ghế gỗ (gồm 01 bàn dài và 08 ghế dựa) và giá trị 01 mái che
có diện tích 6m x 20m có kết cấu cột sắt, mái tôn gắn liền với quyền sử dụng đất
của ông Bùi Văn T1).
2.1. Bà Bùi Thị T2 có quyền khởi kiện lại vụ án về việc buộc ông Bùi Văn
T1 trả số tiền 90.000.000 đồng trên theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, về chi phí tố tụng khác và
quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 10/12/2021, bà Bùi Thị T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo đúng quy định pháp luật.
Ngày 15/12/2021, ông Bùi Văn T1 kháng cáo một phần bản án sơ thẩm và
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu buộc bà Bùi Thị T2
phải chấm dứt hành vi cản trở ông T1 xây dựng tường rào trên quyền sử dụng
đất có diện tích sử dụng là 23,5m
2
.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông T1 và bà T2 không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành
đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung
vụ án: Đối với ranh đất ông T1 yêu cầu bà T2 phải trả có diện tích đất 23,5m
2
là
không có căn cứ, phần đất này nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
UBND thành phố T cấp cho bà T2 sử dụng, nên ông T1 yêu cầu bà T2 chấm dứt
hành vi cản trở ông T1 xây tường ranh là không có cơ sở, tại phiên tòa bà T2 tự
nhận hiện nay 02 giấy chứng nhận bản chính của ông T1 hiện đã thất lạc không

5
còn, nên ông T1 tự làm đơn gửi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để cấp phó
bản lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đề nghị sửa một phần bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Bùi Thị T2
và ông Bùi Văn T1 làm trong thời hạn, có nội dung, hình thức phù hợp với quy
định của pháp luật nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về kháng cáo của của bà Bùi Thị T2 và ông Bùi Văn T1, Hội đồng xét
xử nhận thấy:
Về yêu cầu phản tố của bị đơn, bà T2 được Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập
hợp lệ đến hai lần nhưng bà T2 vắng mặt, bà T2 không có đơn yêu cầu xét xử
vắng mặt là bà T2 đã từ bỏ yêu cầu phản tố được quy định tại điểm c khoản 2
Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với
yêu cầu phản tố của bà T2 và quyết định cho bà T2 được quyền khởi kiện lại
theo quy định của pháp luật là có căn cứ, nên không có căn cứ chấp nhận yêu
cầu phản tố của bà T2.
Xét ranh mốc giới và hình thể các thửa đất số 637 của ông Bùi Văn T1 và
thửa đất số 611 của bà Bùi Thị T2 thấy rằng:
Thửa đất số 637, tờ bản đồ số 30-3 của ông T1 thể hiện: Cạnh phía Nam
giáp với giáp đường nhựa 5m (nay là đường ĐX 084) có chiều dài là 8,30m +
18,30m + 6,20m = 32,80m; cạnh phía Tây giáp với thửa đất số 611 của bà Bùi
Thị T2 có chiều dài 17,3m + 2,3m + 6,7m = 25,45m (đây là 02 cạnh đất mà hiện
nay các bên đang tranh chấp) và hình thể của cạnh phía Tây giáp đất bà T2 là
một đường gấp khúc tại cạnh có chiều dài 2,3m + 6,7m. Trong khi đó, tại Mảnh
trích đo địa chính do Chi nhánh Văn phòng Đ thành phố T lập ngày 21/6/2021
thể hiện cạnh phía Nam của thửa đất số 637 giáp với đường nhựa ĐX 084 có
chiều dài là 9,36m + 15,40m + 3,09m + 5,70m = 33,55m (tăng 0,75m so với
giấy chứng nhận); cạnh phía Tây giáp với thửa số 611 của bà Bùi Thị T2 (bao
gồm cả phần đất tranh chấp) có chiều dài 16,96m + 2,20m + 6,32m = 25,48m
(giảm 0,3m so với giấy chứng nhận) và hình thể thửa đất tại cạnh phía Tây khu
đất theo sự chỉ ranh của ông T1 là một đường thẳng kéo dài đến tường nhà bà
T2.
Thửa đất số 611, tờ bản đồ số 30-3 của bà T2 thể hiện: Cạnh phía Đông
giáp đất cụ Bùi Văn Đ1 (nay là đất ông T1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất) có chiều dài là 17,3m và hình thể các cạnh thửa đất của bà T2 là một
đường thẳng. Trong khi đó, tại Mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn
phòng Đ thành phố T lập ngày 21/6/2021 theo chỉ ranh của bà T2 thể hiện tại
cạnh phía Đông giáp đất ông Bùi Văn T1 bao gồm cả phần đất tranh chấp có
chiều dài 3,02m + 12,75m + 2,20m = 17,97m (giảm 1,63m so với giấy chứng
nhận); cạnh phía Nam giáp đất ông T1 có chiều dài 16,96m (giảm 0,34m so với
giấy chứng nhận).
6
Đối chiếu diện tích đất bà T2 và ông T1 được UBND thành phố T cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích đất các bên đang trực tiếp quản lý,
sử dụng thì tại cạnh hướng Nam phần đất của ông Bùi Văn T1 đã tăng lên
0,75m; trong khi đó, tại cạnh tiếp giáp này phần đất của bà T2 cũng đang bị
thiếu 1,63m. Tại cạnh hướng Tây phần đất của ông T1 tuy có giảm 0,3m nhưng
tại cạnh thửa đất này phần đất của bà T2 cũng đang giảm 0,34m là phù hợp với
ranh giới khi các bên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy,
thực tế chiều dài cạnh thửa đất số 611 của phần đất bà T2 đang quản lý, sử dụng
là bị thiếu so với chiều dài cạnh thửa trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đã được Nhà nước công nhận; trong khi đó, chiều dài cạnh thửa phần đất ông T1
đang thực tế sử dụng là phù hợp với chiều dài cạnh thửa đã được công nhận
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T1.
Do đó, có cơ sở để xác định phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế có diện
tích 23,5m
2
là thuộc quyền sử dụng của bà Bùi Thị T2. Việc ông T1 yêu cầu bà
T2 chấm dứt hành vi cản trở ông T1 xây dựng hàng rào trên phần đất tranh chấp
23,5m
2
không thuộc quyền sử dụng của mình là không có cơ sở chấp nhận theo
quy định tại Điều 169 Bộ luật Dân sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 15/7/2022, ông T1 xác định ranh mốc giới
đất giữa ông T1 và bà T2, nhưng ông T1 xây tường ranh giới đất theo đường
cong là không đúng theo yêu cầu giữa hai bên tự nguyện tại phiên tòa ngày
15/7/2022. Cho nên có căn cứ xác định ranh mốc giới đất giữa ông T1 và bà T2
có tứ cận: Phía Tây giáp nhà bà T2 ngang phía sau rộng 0,41m; phía Nam giáp
cột nhà phía sau của ông T1 ngang rộng 0,41m làm ranh mốc giới đất giữa bà T2
và ông T1 được xác định bằng 01 đường thẳng dài 16,96m là cột mốc được ông
T1 và bà T2 có chiều ngang rộng 2,20m tính từ ranh nhà của bà T2 sang phần
sân của ông T1 làm ranh mốc giới đất giữa ông T1 và bà T2, (có sơ đồ bản vẽ
kèm theo).
Đối với diện tích đất 11,8m
2
, bà T2 đã xây dựng nhà, trên phần đất của ông
T1, nên bà T2 có nghĩa vụ phải tháo dỡ các công trình gắn liền với đất để trả lại
cho ông Bùi Văn T1 phần đất có diện tích khoảng 11m
2
(qua đo đạc thực tế là
11,8m
2
); phần đất có tứ cận như sau: Phía Tây giáp đất bà Bùi Thị T2, phía
Đông giáp đất bà Bùi Thị T2; phía Nam giáp đất ông Bùi Văn T1, phía Bắc giáp
đất bà Bùi Thị C1 là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, nên
được ghi nhận.
Đối với yêu cầu của ông T1, yêu cầu bà T2 trả lại 02 bản chính Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: H51900 do Cơ quan U thị xã T, tỉnh Bình
Dương cấp ngày 24/6/2009 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU
791086 (số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH04085) do Cơ quan U thành phố T,
tỉnh Bình Dương cấp ngày 21/10/2014, tại phiên tòa phúc thẩm bà T2 thừa nhận
02 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T1 hiện nay đã bị thất
lạc không tìm được nên ông T1 có quyền liên hệ các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền để xin cấp phó bản lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định
pháp luật.

7
Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của ông
T1 và một phần kháng cáo của bà T2, ghi nhận sự tự nguyện của bà T2 tháo dỡ
toàn bộ một phần căn nhà phía sau để trả cho ông T1 11,8m
2
đất.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng năm 2015.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Bùi Văn T1 và bà Bùi Thị
T2. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 63/2021/DS-ST ngày 01/12/2021
của Tòa án nhân dân thành phố T.
- Căn cứ Điều 227, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ các điều 105, 164, 166, 169, 175, 176 của Bộ luật Dân sự; Điều
166 của Luật Đất đai; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn ông Bùi Văn T1 về việc
“tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
và kiện đòi tài sản” đối với bị đơn bà Bùi Thị T2.
Bà Bùi Thị T2 có trách nhiệm tháo dỡ toàn bộ tài sản để trả lại cho ông Bùi
Văn T1 quyền sử dụng đất có diện tích là 11,8m
2
, đất có tứ cận:
- Phía Đông giáp đất ông Bùi Văn T1;
- Phía Tây giáp đất bà Bùi Thị T2 dài 3,83m;
- Phía Nam giáp đất ông Bùi Văn T1 dài 3,65m;
- Phía Bắc giáp đất bà Bùi Thị C1 dài 0,77m và 4,14m.
(có sơ đồ kèm theo).
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn T1 về việc buộc bà
Bùi Thị T2 chấm dứt hành vi cản trở ông T1 xây dựng hàng rào làm ranh giới
giữa đất ông Bùi Văn T1 và đất bà Bùi Thị T2 trên diện tích đất tranh chấp là
23,5m
2
tại phường Đ, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Xác định ranh mốc giới đất giữa ông T1 và bà T2 có tứ cận: Phía Tây giáp
nhà bà T2 ngang phía sau rộng 0,41m; phía Nam giáp cột nhà phía sau của ông
T1 ngang rộng 0,41m làm ranh mốc giới đất giữa bà T2 và ông T1 được xác
định bằng 01 đường thẳng dài 16,96m là cột mốc được ông T1 và bà T2 thống
nhất có chiều ngang rộng 2,20m tính từ ranh nhà của bà T2 sang phần sân của
ông T1 làm ranh mốc giới đất giữa ông T1 và bà T2, tọa lạc tại phường Đ,
thành phố T, tỉnh Bình Dương.

8
(có sơ đồ kèm theo).
Ông Bùi Văn T1 được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
để được cấp phó bản lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: H51900
do Cơ quan U thị xã T, tỉnh Bình Dương cấp ngày 24/6/2009 cho ông Bùi Văn
T1 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 791086 (số vào sổ cấp giấy
chứng nhận: CH04085) do Cơ quan U thành phố T, tỉnh Bình Dương cấp ngày
21/10/2014 cho ông Bùi Văn T1 theo quy định của pháp luật.
3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn bà Bùi Thị T2 về việc
buộc ông Bùi Văn T1 phải trả cho bà Bùi Thị T2 số tiền 90.000.000 đồng (đây
là giá trị 01 bộ bàn ghế gỗ (gồm 01 bàn dài và 08 ghế dựa) và giá trị 01 mái che
có diện tích 6m x 20m có kết cấu cột sắt, mái tôn gắn liền với quyền sử dụng đất
của ông Bùi Văn T1).
Bà Bùi Thị T2 có quyền khởi kiện lại vụ án đòi tài sản theo biên bản thỏa
thuận dân sự do ông Bùi Văn T1 và bà Bùi Thị T2 lập ngày 06/8/2019, tại Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương theo quy định của
pháp luật.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Bùi Thị T2 phải chịu số tiền 2.250.000 đồng (hai triệu hai trăm năm
mươi nghìn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo Biên lai thu án phí,
lệ phí Tòa án số 0000501 ngày 23/9/2021 tại Chi cục T2 thành phố T.
Ông Bùi Văn T1 phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu
trừ vào tiền tạm ứng án phí ông Bùi Văn T1 đã nộp là 1.550.000 đồng (một triệu
năm trăm năm mươi nghìn đồng), theo Biên lai thu án phí, lệ phí Tòa án số
0051196 ngày 22/02/2021; Chi cục T2 thành phố T hoàn trả cho ông Bùi Văn
T1 số tiền còn lại là 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Trả lại cho bà Bùi Thị T2 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm số
0000740 ngày 16/12/2021 của Chi cục T2 thành phố T.
Trả lại cho ông Bùi Văn T1 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
số 0000766 ngày 23/12/2021 của Chi cục T2 thành phố T.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố T;
- TAND thành phố T;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
9
- Các đương sự (để thi hành);
- Tổ Hành chính Tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa D.
Bùi Văn Tâm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 706/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Bản án số 692/2025/DS-PT ngày 19/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 694/2025/DS-PT ngày 19/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Bản án số 678/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Bản án số 680/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 687/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Bản án số 691/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm