Bản án số 147/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 của TAND huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh về tội cướp giật tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 147/2019/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 147/2019/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 147/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 của TAND huyện Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh về tội cướp giật tài sản |
---|---|
Tội danh: | 136.Tội cướp giật tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hóc Môn (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
Số hiệu: | 147/2019/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/10/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 147/2019/HS-ST NGÀY 01/10/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Vào ngày 01 tháng 10 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 120/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 165/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Hữu Đ - sinh năm: 2001 tại Thành phố Z; Thường trú: 22/7 Đồng Tâm, ấp Mỹ Hòa 1, xã X, huyện Y, Thành phố Z; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công C và bà Vũ Thị C; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23.9.2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Ông Ngô Chí H – sinh năm: 1993 (có đơn xin vắng mặt)
Địa chỉ: 57/3A ấp Trung Lân, xã E, huyện Y, Tp.Z.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 6 giờ 40 phút ngày 04.5.2019, Nguyễn Hữu Đ dùng điện thoại di động cá nhân có sim số 0336946029 vào trang web “Thegioididong.com” để đặt mua 01 điện thoại di động hiệu Huawei Nova 3i. Hai bên thỏa thuận địa chỉ giao hàng tại số 24 đường Đồng Tâm, ấp Mỹ Hòa 1, xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn. Đến 08 giờ 50 phút cùng ngày, nhân viên của hệ thống Thế giới di động là anh Ngô Chí H điện thoại cho Đ để giao hàng thì Đ chỉ đường cho anh H đến trước số 48/2B ấp Trung Mỹ Tây, xã Trung Chánh, huyện Hóc Môn để gặp Đ giao hàng. Đạt yêu cầu anh H mở hộp đựng điện thoại, khởi động máy rồi đưa cho Đ để kiểm tra. Lúc này, bất ngờ Đ cầm điện thoại trên tay phải bỏ chạy khoảng 20m thì bị anh H đuổi theo, tri hô cùng với lực lượng Công an xã Trung Chánh trên đường tuần tra bắt quả tang cùng tang vật.
Tại Cơ quan điều tra, Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình như trên.
Tại Kết luận định giá tài sản số 96/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự phòng tài chính – kế hoạch Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, kết quả định giá như sau: 01 (một) điện thoại di động hiệu Huawei Nova 3i, số tiền là 5.990.000 (năm triệu chín trăm chín mươi ngàn đồng).
Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Huawei Nova 3i, màu đen, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại.
- 01 điện thoại di động hiệu MI3W màu trắng;
Tại bản Cáo trạng số 117/CT-VKS-HS ngày 01.8.2019, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn để xét xử bị cáo Nguyễn Hữu Đ về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị xử phạt:
Nguyễn Hữu Đ mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Về xử lý vật chứng:
Đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước một điện thoại di động hiệu MI3W màu trắng, đây là phương tiện bị cáo dùng để phạm tội.
Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;
Sau khi nghe lời khai nhận tội của bị cáo;
Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo cũng không có ý kiến, khiếu nại đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng.
[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án:
Tại Phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Hữu Đ đã khai nhận hành vi cướp giật tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an huyện Hóc Môn, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng do Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Hữu Đ đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Giữa nơi công cộng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài cho những nhu cầu cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính, bị cáo đã bất chấp hậu quả xảy ra cho bản thân, cho người bị hại và cho những người chung quanh.
Xét thấy bị cáo tuổi đời còn trẻ nhưng không chăm lo làm ăn lương thiện mà lại đi cướp giật tài sản để có tiền để tiêu xài cho bản thân. Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt tuy có giá trị không lớn nhưng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo hết sức nguy hiểm.
Vào ngày 04.5.2019 bị cáo Nguyễn Hữu Đ đã có hành vi công khai và nhanh chóng chiếm đoạt 01 điện thoại di động trị giá 5.990.000 đồng của anh Ngô Chí H thì bị bắt cùng với tang vật.
Do đó, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và việc áp dụng biện pháp cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là phù hợp với quy định của pháp luật, nhằm giúp bị cáo cải tạo tốt hơn, sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản, đồng thời cũng nhằm tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã được thu hồi trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 điều 171 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và xét hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt cho bị cáo.
[3] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Huawei Nova 3i, màu đen, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại nên Hội đồng xét xử xét không xem xét.
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu MI3W màu trắng, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
[4] Các lập luận trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung truy tố tại bản Cáo trạng, một phần quan điểm luận tội của Kiểm sát viên.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt:
Bị cáo Nguyễn Hữu Đ 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 23.9.2019 được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04.5.2019 đến ngày 10.5.2019.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự;
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu MI3W màu trắng.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 106/PNK ngày 03.6.2019 của Công an huyện Hóc Môn.)
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.
Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!