Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST ngày 01/08/2024 của TAND huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST ngày 01/08/2024 của TAND huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tiên Yên (TAND tỉnh Quảng Ninh) |
Số hiệu: | 02/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp về ly hôn, nuôi con |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TIÊN YÊN
TỈNH QUẢNG NINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 02/2024/HNGĐ-ST
Ngày 19-3-2024
“V/v: Tranh chấp về ly hôn,
nu
ô
i
con
”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Quang Độ.
Các Hội thẩm nhân dân: ông Nguyễn Quang Chỉnh và bà Hà Thị Thu.
- Thư ký phiên toà: bà Hoàng Quỳnh Anh – Thư ký Toà án nhân dân huyện
Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh
tham gia phiên tòa: ông Đặng Quang Sơn – Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 3 năm 2024 tại Phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Tiên
Yên, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
50/2023/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2023 về việc: “Tranh chấp về ly
hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST-
HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Hoàng Thị T - sinh năm 1992.
ĐKTT: thôn Phương Nam, xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Chỗ ở hiện nay: phố Hòa Bình, thị trấn Tiên Yên, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Có mặt.
- Bị đơn: Hà Văn H - sinh năm 1986.
Địa chỉ: thôn Phương Nam, xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/8/2023, trong quá trình giải quyết vụ án và
tại phiên tòa nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hà Văn H được tự do tìm hiểu và kết hôn
trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, Ngày 08/8/2018, chị và anh H đăng ký kết hôn
tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi
2
kết hôn, chị đã từng kết hôn 02 lần và đã ly hôn, còn anh H cũng đã từng kết hôn
01 lần và cũng đã ly hôn; Anh chị có thời gian tìm hiểu nhau khoảng hơn 06
tháng; sau khi kết hôn, anh chị về sống cùng với bố mẹ đẻ của anh H là ông Hà
Văn N và bà Tô Thị G tại thôn Phương Nam, xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh
Quảng Ninh. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm
2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị và anh H bất
đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau; anh H
không chịu làm ăn kinh tế và đóng góp chi phí sinh hoạt gia đình cùng với chị;
anh H không phụ giúp chị chăm lo con cái. Năm 2021, chị có sinh cháu thứ hai
nhưng anh H không hề thay đổi, không quan tâm, chăm sóc chị và các con khi
ốm đau; chi phí sinh hoạt chung của gia đình anh chị không phải lo toan nhưng
tiền bỉm, sữa, con đau ốm phải do một mình chị chịu. Do mâu thuẫn vợ chồng
nên anh chị đã sống ly thân từ năm 2022 cho đến nay, chị chuyển lên sống tại nhà
anh trai tại phố Hòa Bình, thị trấn Tiên Yên, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh,
giữa chị và anh H không có biện pháp hàn gắn tình cảm. Nay anh xét thấy mâu
thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích
hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với
anh H.
Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh Hà Văn H có 02 (hai) con
chung tên là Hà Thị H1, sinh ngày 23/5/2019 và Hà Minh C, sinh ngày
08/11/2021. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được quyền trực tiếp nuôi
dưỡng con chung Hà Minh C cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi); anh Hà Văn H
được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hà Thị H1 cho đến khi thành niên
(đủ 18 tuổi). Chị và anh H không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Từ khi vợ
chồng sống ly thân, cháu Hường vẫn do anh H trực tiếp nuôi dưỡng và được đi
học đầy đủ; còn chị là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chí. Hiện chị đang làm
lao động tự do (Thu mua sắt vụn tại phố Hòa Bình, thị trấn Tiên Yên, huyện Tiên
Yên); chị đảm bảo đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh Hà Văn H không có tài sản chung,
không vay nợ chung với cơ quan, cá nhân hay tổ chức nào. Chị không yêu cầu
Toà án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 10/11/2023, trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên toà, bị đơn anh Hà Văn H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Quá trình tìm hiểu, kết hôn và s
ố
ng chung với nhau
như chị Hoàng Thị T trình bày là đúng. Còn về mâu thuẫn giữa anh và chị T là do
giữa anh và chị T bất đồng quan điểm sống nhưng theo anh đó cũng chỉ là mâu
thuẫn nhỏ trong gia đình, vợ chồng nào cũng gặp phải và chưa đến mức phải ly
hôn. Việc chị T cho rằng anh không quan tâm vợ con, không chịu đi làm là không
đúng; bởi lẽ anh không biết nói những lời hay, nhưng khi chị T nhờ gì anh đều
làm hết; việc chăm sóc con cái khi ốm đau là do ở nhà vẫn còn con nhỏ và con
riêng của chị T; anh không đóng góp tiền bỉm sữa với chị T vì anh không đi làm
ăn gì, chỉ ở nhà phục giúp việc nông của gia đình nên anh không có tiền, anh có
xin đi làm việc công ty nhưng do tình trạng sức khỏe anh không tốt nên công ty
3
không nhận. Đến nay, anh vẫn còn tình cảm với chị T, các con cũng còn nhỏ,
mong muốn của anh là vợ chồng được đoàn tụ để cùng nhau chăm sóc con cái.
Do đó, anh không chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Hoàng Thị T.
Về con chung: Anh và chị Hoàng Thị T có 02 (hai) con chung tên là Hà Thị
H1, sinh ngày 23/5/2019 và Hà Minh C, sinh ngày 08/11/2021. Do anh không
đồng ý ly hôn nên không có yêu cầu giải quyết về con. Nhưng nếu Toà án có giải
quyết ly hôn thì anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung
cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng
nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Anh và chị Hoàng Thị T không có tài sản
chung, không vay nợ chung với cơ quan, cá nhân hay tổ chức nào. Chị không yêu
cầu Toà án giải quyết.
Tòa án đã đến địa chỉ cư trú của chị T và anh H tại thôn Phương Nam, xã
Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh để xác minh về mâu thuẫn trong
quan hệ hôn nhân của anh chị và được Trưởng thôn cung cấp thông tin: chị T và
anh H có kết hôn tại chính quyền địa phương và cùng cư trú tại thôn Phương
Nam, xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống vợ
chồng giữa anh chị chính quyền địa phương được biết là cũng có mâu thuẫn
nhưng anh chị không yêu cầu chính quyền địa phương hòa giải mẫu thuẫn vợ
chồng anh chị. Theo phản ánh của các hộ dân liền kề địa phương cũng nắm được
là do anh chị bất đồng quan điểm cả về cách sống và cả về kinh tế dẫn đến việc từ
đầu năm 2023 chị T đã bỏ nhà đi, anh chị sống ly thân từ thời gian đó đến nay;
khi ly thân cháu lớn vẫn do anh H trực tiếp nuôi dưỡng còn cháu bé được chị T
đưa đi cùng. Nay chị T có yêu cầu khởi kiện ly hôn với anh H, đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên tại phiên tòa:
Về tố tụng: trong quá trình từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng
xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn tuân
thủ đúng quy định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn xin được ly hôn với bị đơn.
Về con chung: Giao con chung Hà Thị H1, sinh ngày 23/5/2019 cho anh Hà
Văn H nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi); giao con chung Hà Minh
C, sinh ngày 08/11/2021 cho chị Hoàng Thị T nuôi dưỡng cho đến khi thành niên
(đủ 18 tuổi); không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.
Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn H không có tài sản chung,
không vay nợ chung với cơ quan, cá nhân hay tổ chức nào. chị T và anh H không
yêu cầu Toà án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
4
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;
Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
ý kiến của các đương sự, đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn – chị Hoàng Thị T khởi kiện “về việc Tranh chấp về ly hôn,
nuôi con” đối với bị đơn – anh Hà Văn H (Nơi cư trú: thôn Phương Nam, xã
Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh) thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự do đó việc
Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn là đúng
quy định của pháp luật.
[2] Về quan hệ hôn nhân: quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị T và anh Hà
Văn H là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn, vợ
chồng anh chị chung sống hòa thuận cho đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn,
nguyên nhân mâu thuẫn chị T trình bày là do chị và anh H bất đồng quan điểm
sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau; anh H không chịu làm ăn
kinh tế và đóng góp chi phí sinh hoạt gia đình cùng với chị, không hề quan tâm,
chăm sóc chị; quá trình hòa giải và tại phiên tòa, anh H cho rằng tuy anh và chị T
có những bất đồng trong cuộc sống vợ chồng nhưng đó chỉ là những mâu thuẫn
nhỏ mà gia đình nào cũng có, anh vẫn còn tình cảm với chị T, hơn nữa các con
còn nhỏ nên anh mong muốn vợ chồng được đoàn tụ; thời gian tới anh sẽ tiếp tục
xin đi làm công ty để có thêm thu nhập cho gia đình. Tòa án đã tạo điều kiện để
anh chị quay về đoàn tụ nhưng đến hiện tại anh chị vẫn không có biện pháp hàn
gắn tình cảm và vẫn tiếp tục sống ly thân. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa chị T vẫn một mực cương quyết xin ly hôn. anh H cũng không có biện
pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn
nhân giữa chị T và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia
đình. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Hoàng Thị T.
[3] về con chung: chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn H có 02 (hai) con chung
tên là Hà Thị H1, sinh ngày 23/5/2019 và Hà Minh C, sinh ngày 08/11/2021.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị T có nguyện vọng được trực
tiếp nuôi dưỡng cháu Hà Minh C, giao cháu Hà Thị H1 cho anh Hà Văn H trực
tiếp nuôi dưỡng. Anh Hà Văn H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả
hai con chung.
Hội đồng xét xử thấy việc giao con cho ai nuôi cần phải xét đến điều kiện
để nuôi con thì thấy: Nguyện vọng được nuôi con của chị T và anh H là chính
đáng, tuy nhiên đối với việc anh H yêu cầu được nuôi hai con là không phù hợp,
vì hiện nay cháu Hà Minh C chưa đủ 36 tháng tuổi, theo quy định của pháp luật
5
thì con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con; Về điều kiện
nuôi con của chị T thì xét thấy, từ khi chị T và anh H sống ly thân, cháu Chí vẫn
do chị T trực tiếp nuôi dưỡng tốt mặt khác theo như chị T trình bày trong quá
trình giải quyết và tại phiên tòa, trước đó chị đã từng kết hôn 02 lần; lần thứ nhất
khoảng năm 2019 chị kết hôn với anh Bùi Huy Mạnh, có 01 con chung tên là Bùi
Thị Huyền, sinh năm 2010. Năm 2013, chị T và anh Manh ly hôn, con chung Bùi
Thị Huyền do anh Mạnh trực tiếp nuôi dưỡng, chị T không phải cấp dưỡng nuôi
con chung. Được một thời gian chị kết hôn lần 2 với anh Hoàng Đình Thẩm và có
một con chung tên là Hoàng Thị Quỳnh Như, sinh năm 2014; năm 2017, chị và
anh Thẩm ly hôn, con chung Hoàng Thị Quỳnh Như giao cho chị T trực tiếp nuôi
dưỡng, anh Thẩm không phải cấp dưỡng nuôi con chung; hiện tại chị T đang trực
tiếp nuôi dưỡng cháu Hoàng Thị Quỳnh Như và cháu Hà Minh C, chị T hiện
đang làm lao động tự do, thu nhập hàng tháng được 8.000.000 đồng cũng ổn định
để nuôi con. Do đó cần chấp nhận yêu cầu của chị T giao cho mỗi người nuôi
một cháu là phù hợp với điều kiện thực tế của hai bên và quy định của pháp luật,
các bên có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không
ai được cản trở.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại
phiên tòa chị T và anh H đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng
xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn H không
có tài sản chung, không vay nợ chung với cơ quan, cá nhân hay tổ chức nào. Anh
chị không yêu cầu Toà án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 51; Điều 55, Điều 56; Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83
của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Hoàng Thị T.
2. Về quan hệ hôn nhân: chị Hoàng Thị T được ly hôn với anh Hà Văn H.
6
3. Về con chung: Giao cho chị Hoàng Thị T được quyền trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Hà Minh C, sinh ngày cho đến khi
thành niên (đủ 18 tuổi); giao cho anh Hà Văn H được quyền trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Hà Thị H1, sinh ngày cho đến khi
thành niên (đủ 18 tuổi). Chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn H không ai phải cấp
dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không
ai được cản trở.
4. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn H không có
tài sản chung, không vay nợ chung với cơ quan, cá nhân hay tổ chức nào. Anh chị
không yêu cầu Toà án giải quyết.
5. Về án phí: Chị Hoàng Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng)
tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ
thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004314 ngày
24/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. chị
T đã nộp đủ án phí.
6. Về quyền kháng cáo: đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND huyện Tiên Yên;
- TAND tỉnh Quảng Ninh;
- Chi cục THADS huyện Tiên Yên;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Quang Độ
Tải về
Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Bản án số 26/2024/HNGĐ-PT ngày 02/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm